Chỉ định tháo khớp cổ tay

Tháo khớp cổ tay là phẫu thuật tách cổ tay và bàn tay ra khỏi cánh tay, được chỉ định trong một số trường hợp bệnh nhất định. Trong phẫu thuật tháo khớp cổ tay, đầu dưới xương trụ và xương quay (hai xương cẳng tay) được tách ra khỏi nhóm xương cổ tay. Bàn tay và cổ tay sau đó được lấy ra khỏi cơ thể. Điểm đáng lưu ý là không có xương nào bị cắt trong phẫu thuật tháo khớp cổ tay.

1. Tổng quan về cắt cụt chi và tháo khớp cổ tay

Tháo khớp cổ tay được ứng dụng trong các trưởng hợp phải cắt cụt chi trên. Việc này cần tuân theo các nguyên tắc cơ bản tương tự như việc cắt cụt ở những phần khác của chi.

Tần suất thực sự của việc tháo khớp cổ tay vẫn chưa được biết rõ. Các con số về tỷ lệ cắt cụt chi, bao gồm cả các chi trên, thay đổi đáng kể giữa các công bố. Có khoảng 350.000-1.000.000 người bị cắt cụt chi và con số mắc trung bình hàng năm là 20.000-30.000.

Cắt cụt chi vẫn là một trong những phẫu thuật lâu đời nhất. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra bằng chứng về những người tiền sử bị cắt cụt chi, do bẩm sinh, do phẫu thuật hoặc chấn thương. Mãi đến Thế chiến I và II, những ý tưởng hiện đại về cắt cụt chi và chân tay giả mới được phát triển. Đặc biệt là trong vòng ba thập kỷ qua, các trung tâm kỹ thuật phục hồi và nghiên cứu chân tay giả được hỗ trợ bởi tài trợ liên bang đã phổ biến thông tin mới về cơ sinh học và thiết kế chân tay giả. Với sự ra đời của y học thể chất và phục hồi chức năng, các bác sĩ phẫu thuật giờ đây nhận ra rằng việc chăm sóc những người tháo khớp nói chung và tháo khớp cổ tay nói riêng không chỉ dừng lại sau khi người bệnh được cắt bỏ chỉ khâu.

Khi công nghệ y tế và kỹ thuật phẫu thuật được cải thiện trong các lĩnh vực bệnh mạch máu ngoại vi, đái tháo đường, vi phẫu số lượng người phải tháo khớp hay cắt cụt chi sẽ giảm xuống. Những câu hỏi đạo đức về "công nghệ hơn lý trí" sẽ được đặt lên hàng đầu. Một ví dụ của cuộc tranh luận này có thể được quan sát với sự ra đời của cấy ghép chi trên. Mặc dù cấy ghép chi cung cấp một giải pháp thay thế hấp dẫn cho những bệnh nhân cắt cụt chi, nhưng vẫn cần thảo luận thêm để đánh giá rủi ro và lợi ích của các thủ thuật đó.

Mặc dù kỹ thuật cắt cụt chi đã ổn định và không có khả năng đạt được những tiến bộ triệt để trong tương lai gần, nhưng những tiến bộ về phục hình có khả năng dẫn đến những cải thiện về chức năng và chất lượng cuộc sống của một cá nhân bị cắt cụt chi hay tháo khớp. Tương tự như vậy, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào việc hiểu rõ hơn về vấn đề của đau chi ma vì nó liên quan đến những thay đổi tổ chức lại trong hệ thống thần kinh giác. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi liên quan đến đánh giá người bệnh sau cắt cụt chi hay tháo khớp vẫn chưa được trả lời.

2. Chỉ định tháo khớp cổ tay

Các chỉ định cho việc cắt cụt chi trên tại vị trí cổ tay đều có thể là chỉ định tháo khớp cổ tay.

Mất nguồn cung cấp máu không thể phục hồi của phần cổ tay và bàn tay trên bệnh nhân có bệnh lý nền hoặc bị chấn thương là chỉ định tuyệt đối duy nhất cho việc tháo khớp cổ tay.

Bệnh mạch máu ngoại vi nghiêm trọng, tai nạn thương tích, chấn thương do nhiệt và điện, và tê cóng cũng có thể là nguyên nhân gây hoại tử mô và cắt cụt chi. Bàn tay và cổ tay bị hoại tử không chỉ mất đi chức năng mà còn là mối đe dọa đối với mạng sống của nạn nhân vì các sản phẩm độc hại của quá trình phân hủy mô sẽ được phát tán đi khắp cơ thể theo đường máu.

Một số chấn thương có thể khiến người bệnh phải tháo khớp cổ tay
Một số chấn thương có thể khiến người bệnh phải tháo khớp cổ tay

Điều quan trọng cần nhớ là không tồn tại các thang điểm quy định mức độ nghiêm trọng của chấn thương đối với những thương tích nặng ở chi trên. Phần lớn việc ra quyết định cắt cụt chi bằng tháo khớp cổ tay phụ thuộc vào sự đánh giá của bác sĩ phẫu thuật.

Tương tự như vậy, ở những người bị nhiễm trùng huyết toàn thân, cần phải cắt cụt chi để kiểm soát tình trạng nhiễm trùng lan tràn. Đôi khi, một chấn thương hoặc tình trạng không ảnh hưởng trực tiếp đến hệ mạch máu đã làm mất chức năng chi trên ở mức độ mà việc giữ lại chi không có lợi ích so với việc tháo khớp và lắp mới một bộ phận giả tương ứng.

Một chỉ định khác để cắt cụt chi bằng tháo khớp cổ tay sau chấn thương thần kinh là sự phát triển của các vết loét dinh dưỡng không kiểm soát được. Tháo khớp cổ tay hiếm khi được chỉ định ở những người bị liệt tứ chi, ngay cả khi các chi trên không còn chức năng. Thường thì các chi trên giúp duy trì thăng bằng khi ngồi và phân phối lực đè lên một diện tích lớn hơn, do đó giảm thiểu các vết loét do tì đè.

Một chỉ định không phổ biến khác của tháo khớp cổ tay là những người có khối u ác tính mà không có bằng chứng về di căn. Thậm chí ngay cả sau khi di căn, việc tháo khớp cổ tay có thể vẫn cần thiết để giảm đau khi khối u đã bị loét và nhiễm trùng hoặc đã gây ra biến chứng gãy xương bệnh lý.

3. Kỹ thuật tháo khớp cổ tay được tiến hành như thế nào?

Tháo khớp cổ tay có nhiều ưu điểm giống như cắt cụt cổ tay. Phần cánh tay dài được bảo tồn và người bệnh có thể tự thực hiện tư thế nằm ngửa và nghiêng. Tuy nhiên, khả năng gấp và duỗi cổ tay bị mất đi vĩnh viễn. Do chiều dài của chúng, các cấu trúc cổ tay thông thường không được sử dụng, dẫn truyền điện cơ có vấn đề, tương tự như ở những người bị cắt cụt cổ tay. Tuy nhiên, các vật liệu nhân tạo sau tháo khớp cổ tay hiện tại có thể được tạo kiểu với các đơn vị cổ tay mỏng để giảm thiểu sự chênh lệch về chiều dài giữa các chi trên.

Vạt da dài lòng bàn tay có độ dày đầy đủ và vạt da mặt mu ngắn hơn với tỷ lệ 2: 1 được nâng lên, với vết rạch bắt đầu và kết thúc cách xa 1,5 cm tương ứng với quy trình tạo hình xuyên tâm và cắt ngang. Xác định và điều chỉnh các động mạch và dây thần kinh tại vị trí cổ tay.

Louis, Hunter và Keating đã mô tả một kỹ thuật để giảm thiểu cơn đau sau phẫu thuật tháo khớp cổ tay do hình thành u thần kinh, liên quan đến việc mở rộng các vết mổ gần. Kỹ thuật này cho phép hình thành tính liên tục của u thần kinh tại vị trí này và cách xa nơi gắn vật liệu nhân tạo hoặc vị trí phẫu thuật có vết sẹo, nơi nó có thể gây ra các triệu chứng.

Martini và Fromm đã báo cáo những kết quả tuyệt vời đạt được bằng cách giải phóng ống bao ngoài của gốc thần kinh ra khỏi đầu dây thần kinh khoảng 5 mm. Tuy nhiên, kỹ thuật này không được sử dụng phổ biến ở Hoa Kỳ. Không cần thiết phải điều chỉnh các dây thần kinh bì ở đoạn dưới cẳng tay. Đốt điện được sử dụng để cầm máu các mạch máu trước và sau.

Kỹ thuật tháo khớp cổ tay
Kỹ thuật tháo khớp cổ tay cần được thực hiện thận trọng

Bảo tồn sụn sợi hình tam giác và tránh làm tổn thương khớp quay trụ xa là điều bắt buộc. Nếu không, hành động nghiêng và nằm ngửa của người bệnh sẽ khó thực hiện, gây đau đớn hoặc cả hai. Việc bảo tồn mỏm trâm quay giúp cải thiện hệ thống treo bàn tay giả sau này.

Tháo khớp cổ tay là thủ thuật được lựa chọn ở trẻ em. Nói chung, tháo khớp được ưu tiên lựa chọn hơn so với dịch chuyển xương ở mức gần gốc chi. Sự phát triển của đầu xương vẫn tiếp tục. Theo vào đó, tháo khớp cổ tay có thể ngăn người sự phát triển quá mức ở các đoạn xương ở gốc.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

2.3K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan