Ung thư vú phổ biến ở nam giới như thế nào?

Về mặt cấu trúc giải phẫu, mô vú của nam giới có thành phần tương tự như nữ giới nhưng các mô vú của nam ít hơn và họ vẫn có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh sẽ thấp hơn so với nữ giới. Vậy ung thư vú ở nam giới có thật sự phổ biến hay không?

1. Ung thư vú ở nam giới là căn bệnh như thế nào?

Mặc dù ung thư vú gần như được xem như là một bệnh của phái nữ nhưng ung thư vú cũng có thể ảnh hưởng đến nam giới. Tuy nhiên, tỷ lệ nam giới mắc ung thư vú là hiếm so với ung thư vú ở nữ.

Ung thư vú ở nam giới chiếm 0,5-1% tổng số bệnh nhân ung thư vú. Lý do của tỷ lệ mắc bệnh thấp ở nam giới là do lượng mô vú tương đối thấp cùng với sự khác biệt trong môi trường nội tiết tố của nam giới. Trong khoảng thời gian 18 năm, chỉ có khoảng 62 trường hợp được chẩn đoán và điều trị tại Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore (NCCS), so với 1.300 trường hợp mới mắc ung thư vú nữ hàng năm. Trong năm 2014, NCCS chỉ ghi nhận một trường hợp ung thư vú ở nam giới, năm trường hợp vào năm 2013 và sáu trường hợp vào năm 2010 và 2006. Tại Australia, có khoảng 150 nam giới bị mắc ung thư vú mỗi năm.

Ung thư vú ở nam giới
Ung thư vú ở nam giới là do lượng mô vú tương đối thấp và sự khác biệt trong môi trường nội tiết tố của nam giới

Mặc dù mô vú ở nam giới ít hơn so với nữ giới, các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi ác tính là tương tự. Chương trình Surveillance, Epidemiology and End Result (SEER) đã báo cáo rằng tỷ lệ mắc ung thư vú ở quần thể chung cao nhất ở độ tuổi 52-71, trong khi tỷ lệ mắc cao nhất ở nam giới là 71 tuổi.

Trên thực tế, một số tác giả cho rằng ung thư vú ở nam giới có mô hình bệnh tật tương tự với ung thư vú phụ nữ sau mãn kinh. Tỷ lệ mắc ung thư vú ở nam giới và nữ giới đã tăng lên trong 25 năm qua. Hiệp hội Ung thư Quốc tế (IACR) nhấn mạnh sự gia tăng này và cảnh báo rằng tỷ lệ mắc ung thư vú ở nữ giới tăng 20%, trong khi các ca tử vong liên quan đến ung thư vú tăng 14%. Dữ liệu của SEER cũng cho thấy tỷ lệ này là 1,1 đối với 100.000 nam giới vào giữa những năm 1970 và tăng lên 1.44 đối với 100.000 nam giới vào năm 2010. Tại Hoa Kỳ, 2240 nam giới được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trong năm 2013. Tỷ lệ suốt đời được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở nam giới là 1 trên 1000. Theo dữ liệu của IACR Thổ Nhĩ Kỳ, 0,37% các loại ung thư ở nam giới là ung thư vú.

Về bản chất ung thư vú ở nam giới và nữ giới đều giống nhau, không phân biệt giới tính. Ung thư vú bắt đầu với một khối u ở một bên vú và dần dần phát triển về kích thước. Trong một số trường hợp hiếm, bệnh nhân cũng có thể có những thay đổi da giống như bệnh chàm ở vùng núm vú, hoặc nổi hạch ở nách do sự to ra của các hạch bạch huyết. Ở giai đoạn nặng, các triệu chứng ung thư vú có thể có như đau xương, khó thở hoặc vàng da xuất hiện nhiều hơn khi ung thư di căn sang các khu vực khác như xương, phổi hoặc gan.

Tuy nhiên, tiên lượng đối với ung thư vú ở nam giới là tốt hơn ở nữ giới. Tại Australia, đến 85% nam giới được chẩn đoán ung thư vú sống hơn 5 năm sau khi được chẩn đoán. Hầu hết đều phục hồi tốt sau điều trị và ung thư không bị tái phát sau đó.

2. Vì sao nam giới bị ung thư vú?

Giống như phụ nữ, đàn ông có thành phần mô vú giống với nữ, mặc dù với số lượng nhỏ mô ít hơn. Điều này có nghĩa là nam giới có thể bị ung thư vú nhưng tỉ lệ hiếm hơn nhiều. Nguy cơ một người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trước tuổi 85 là 1:688. Nguy cơ một phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trước 85 tuổi là 1:8.

Một điều quan trọng cần nhớ là nguyên nhân của ung thư vú vẫn chưa rõ ràng và có nhiều yếu tố kết hợp trong đó. Vì vậy, khi mắc ung thư vú, bạn không nên tập trung vào câu hỏi vì sao mắc ung thư vú mà thay vào đó, hãy cố gắng chuyển sự tập trung của bạn sang những vấn đề mà bạn có thể kiểm soát, như quyết định điều trị và chăm sóc bản thân. Có một số yếu tố nguy cơ đã biết cần chú ý. Ví dụ, đột biến gen ung thư vú (BRCA), đặc biệt là BRCA2, cũng như quá trình lão hóa, uống rượu và béo phì làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Những người trong gia đình có người bị ung thư vú, hoặc đang bị bệnh gan, tiếp xúc với phóng xạ cũng nên nghi ngờ về khối u ở vú. Đang điều trị bằng một số loại hormone hoặc làm việc trong môi trường như nhà máy thép sẽ làm tăng thêm rủi ro. Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú của một người nam giới, bao gồm:

2.1. Tuổi tác

Nguy cơ phát triển ung thư vú của một người đàn ông tăng lên theo tuổi tác. Độ tuổi trung bình chẩn đoán ở nam giới là 69, mặc dù nam giới ở mọi lứa tuổi đều có nguy cơ mắc ung thư vú.

Biến gen BRCA1, BRCA2
Người đột biến gen BRCA2 mắc bệnh ung thư vú có nguy cơ tăng cao phát triển ung thư vú

2.2. Đột biến gen BRCA đã biết hoặc tiền sử gia đình có người mắc ung thư vú

Nam giới mang đột biến gen BRCA2 (và hiếm hơn là BRCA1) di truyền hoặc những người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú có nguy cơ tăng cao phát triển ung thư vú. Tuy nhiên, hầu hết nam giới phát triển ung thư vú không có đột biến gen BRCA hoặc tiền sử gia đình có người mắc ung thư vú.

Tiền sử gia đình dương tính với ung thư vú sẽ làm tăng nguy cơ tương đối lên 2,5 lần. Các nghiên cứu cho thấy có khoảng 20% nam giới bị ung thư vú có họ hàng thế hệ 1 (cha, me, anh/chị/em ruột) mắc bệnh tương tự.

Nếu bạn quan tâm rằng gia đình bạn có thể bị đột biến gen di truyền, hoặc nếu gia đình bạn có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú, bạn có thể tư vấn với bác sĩ hoặc có thể được giới thiệu đến một phòng khám ung thư gia đình để đánh giá.

2.3. Sự mất cân bằng nội tiết tố

Cơ thể nam giới đều có khả năng sản xuất một lượng nhỏ nội tiết tố nữ estrogen, cũng như các kích thích tố nam như testosterone. Những người có nồng độ estrogen cao hơn mức bình thường có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. Nồng độ estrogen có thể cao hơn ở nam giới trong một số trường hợp như:

  • Thừa cân hoặc béo phì (vì tế bào mỡ sản xuất estrogen)
  • Mắc các bệnh về gan mãn tính như xơ gan
  • Mắc một số tình trạng di truyền, chẳng hạn như hội chứng Klinefelter
  • Có nồng độ cao của hormon tuyến yên prolactin

2.4. Có tiền sử điều trị xạ trị

Có một số nghiên cứu cho thấy những người nam giới đã điều trị bằng xạ trị, đặc biệt là vùng ngực, có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú.

Hội chứng Klinefelter (47,XXY)
Trường hợp nam giới mắc hội chứng Klinefelter sẽ có nồng độ estrogen cao hơn mức bình thường có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú

3. Những khó khăn trong phát hiện ung thư vú ở nam giới

Không giống như ung thư vú nữ, không có nhiều tiến bộ trong việc phát hiện và điều trị sớm ung thư vú nam. Nguyên nhân có thể là do nam giới thiếu nhận thức và kiến thức về các triệu chứng ở vú, dẫn đến coi thường khối u nhỏ ở vú và không đi khám kịp thời.

Một nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Singapore (SGH) cũng ghi nhận sự chậm trễ trong phát hiện các dấu hiệu của ung thư vú ở nam giới. Xem xét dữ liệu của các bệnh nhân trong hơn 15 năm, các nhà nghiên cứu cho thấy rằng khoảng một nửa số bệnh nhân nam chỉ được chẩn đoán khi họ đã ở giai đoạn nặng.

4. Điều trị ung thư vú ở nam giới

Điều trị ung thư vú ở nam giới tương tự đối với ung thư vú ở phụ nữ giới. Đối với ung thư vú ở nữ, lựa chọn điều trị là phẫu thuật, nhưng chỉ khi ung thư được phát hiện sớm và chưa di căn. Và tùy thuộc vào giai đoạn và kết quả sinh thiết giải phẫu bệnh của ung thư, phẫu thuật thường được điều trị theo sau bởi các phương pháp điều trị khác như hóa trị, xạ trị, liệu pháp nội tiết tố hoặc liệu pháp nhắm trúng đích.

Nếu bệnh đã ở giai đoạn nặng và đã lan rộng, các bác sĩ không thể điều trị ung thư bằng phẫu thuật được nữa. Trong trường hợp đó, hóa trị sẽ là phương pháp điều trị giảm nhẹ. Tuy nhiên, chẩn đoán sớm vẫn là điều quan trọng nhất và điều đó chỉ có thể đạt được khi nhận thức của nam giới về ung thư vú được nâng cao. Vì ung thư vú ở nam giới là rất hiếm nên không có những chỉ định sàng lọc định kỳ. Phương pháp duy nhất để phát hiện sớm là tự khám vú. Điều này giúp nam giới có thể đi khám kịp thời khi phát hiện ra bất thường.

Liệu pháp nhắm trúng đích
Liệu pháp nhắm trúng đích có thể giúp điều trị ung thư vú

Mặc dù việc điều trị tương tự ở nữ giới ở cùng giai đoạn phát hiện, nhưng một người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú cũng nên cân nhắc đến gặp bác sĩ tư vấn di truyền để được tư vấn. Nếu một người đàn ông xét nghiệm dương tính với một gen khiếm khuyết (phổ biến nhất là BRCA1 hoặc BRCA2) có thể gợi ý chẩn đoán ung thư vú trong tương lai và con của anh ta có 50% cơ hội mang gen này.

Bên cạnh đó, con trai của một người đàn ông bị ung thư vú thừa hưởng gen BRCA2 khiếm khuyết chỉ có khoảng 6% khả năng phát triển ung thư vú và nguy cơ chỉ có 1% nếu dương tính với BRCA1.

Tuy nhiên, con cái của một người đàn ông bị ung thư vú thừa hưởng gen khiếm khuyết có nguy cơ từ 40% đến 80% phát triển thành ung thư vú. Nam giới có khuynh hướng di truyền mắc bệnh ung thư vú cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt ở độ tuổi trẻ hơn so với những người bình thường.

Mặc dù không phổ biến như bệnh ung thư vú ở nữ giới nhưng tuyệt đối các “đấng mày râu” cũng không nên bỏ qua các triệu chứng của căn bệnh này. Việc phát hiện và điều trị bệnh ung thư vú ở nam giới giai đoạn sớm có thể đem lại tiên lượng điều trị tốt hơn.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Nguồn tham khảo: ncbi.nlm.nih.gov, healthxchange.sg, bcna.org.au/media

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

9.8K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan