Giải thích rõ hơn về cơ chế loạn nhịp tim

Bài viết được tham vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Nội tim mạch - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc

Rối loạn nhịp tim là một trong những bất thường tim mạch thường gặp trên lâm sàng. Biểu hiện của bệnh rất đa dạng, phong phú nên đôi khi khiến người bệnh chủ quan không đến khám, dẫn đến nhiều biến chứng khác nhau.

1. Tổng quan về rối loạn nhịp tim

Tim ở người bình thường gồm 4 buồng hoạt động co bóp nhịp nhàng để tống máu đi nuôi các cơ quan trong cơ thể. Tâm nhĩ phải nhận máu từ các cơ quan, đưa máu xuống tâm thất phải để tống lên phổi tiến hành quá trình trao đổi khí, biến đổi máu nghèo oxy thành máu giàu oxy. Máu giàu oxy sau đó về nhĩ trái theo các tĩnh mạch phổi, và cuối cùng xuống thất trái để đưa máu đi nuôi khắp cơ thể. Các buồng tim có khả năng bơm máu và hoạt động đồng bộ như vậy là nhờ vào khả năng tự phát nhịp và dẫn truyền các xung động đến các tế bào cơ tim. Nút xoang nằm ở thành nhĩ phải, gần lỗ đổ vào tĩnh mạch chủ trên là nút phát xung chủ nhịp với tần số khoảng 60 - 100 nhịp/ phút, được ví như nhạc trưởng điều hành hoạt động co bóp cơ tim. Nút nhĩ thất, bó nhĩ thất, bó His, nhánh trái, nhánh phải và các sợi Purkinje là các thành phần cấu tạo của hệ thống dẫn truyền trong tim, đưa các kích thích từ tâm nhĩ phải đến từng tế bào cơ tim ở các buồng tim còn lại.

Rối loạn nhịp tim có nghĩa là nhịp tim bất thường, xảy ra khi có bất thường trong việc phát xung động hoặc rối loạn đường dẫn truyền xung động trong tim hoặc phối hợp cả hai trường hợp trên. Đây không phải là tình trạng bệnh lý hiếm gặp trên lâm sàng, người bệnh cần đến khám tại các cơ sở y tế để được khám, tư vấn, lên kế hoạch điều trị để hiểu rõ và kiểm soát tình hình sức khỏe của mình tốt hơn.

Máy tạo nhịp tim
Khi tim có vấn đề bất thường sẽ gây ra rối loạn nhịp tim

2. Rối loạn nhịp tim do tăng tính tự động cơ tim

Hệ thống dẫn truyền xung động là loại tế bào đặc biệt trong cơ thể vì chúng có tính tự động. Đặc điểm này thể hiện rõ qua khả năng tự phát xung của nút xoang nhĩ. Ở người khỏe mạnh, bản thân tế bào cơ tim tâm nhĩ và tâm thất không có khả năng khởi phát nhịp. Chúng không thể tự co để khử cực tâm trương do khoảng tạo nhịp của các dòng ion trong tế bào cơ tâm nhĩ và cơ tâm thất rất âm, sự di chuyển dòng ion không tạo ra quá trình tự khử cực. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các tế bào cơ tâm nhĩ và cơ tâm thất có mức điện thế nghỉ tăng cao đủ để tự khởi phát một quá trình khử cực tâm trương lặp lại, gọi là sự bất thường của tính tự động cơ tim. Khi phát xung với tần số quá cao, chúng có thể chiếm giữ vai trò chủ nhịp của nút xoang khiến tim hoạt động co bóp không hiệu quả. Tình trạng tự động bất thường này có thể xảy ra ở bất kỳ thành phần nào khác của quả tim, phổ biến ở những vùng thiếu máu nuôi dưỡng.

Tần số phát xung của những vùng có tính tự động bất thường nhanh hay chậm phụ thuộc vào điện thế màng. Tần số tăng tỷ lệ khi điện thế màng của các tế bào cơ tim ở mức cao. Vì vậy các nhịp tim rối loạn theo cơ chế bất thường tính tự động thường không gây nguy hiểm đến mức phải ức chế hoạt động tim bằng phương pháp tạo nhịp vượt tần số.

Tính tự động bất thường gây rối loạn nhịp tim cũng có thể xuất hiện khi điện thế màng tế bào ở mức thấp, kèm theo nhiều yếu tố liên quan như nhồi máu cơ tim, thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, bệnh mạch vành. Trong thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, nồng độ Kali ngoại bào tăng lên làm điện thế màng tế bào giảm.

Một vài loại nhịp tim bất thường có thể xuất hiện do rối loạn tính tự động cơ tim như nhịp nhanh nhĩ ở người trẻ, nhịp nhanh thất sau can thiệp tái tưới máu, nhịp nhanh thất do thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, ...

Chẩn đoán và điều trị rối loạn nhịp tim chậm thế nào?
Điều trị rối loạn nhịp tim có thể phát hiện sớm bệnh nhồi máu cơ tim

3. Rối loạn nhịp tim do các vòng vào lại

Sự xuất hiện các vòng vào lại là cơ chế phổ biến nhất trong nhóm nguyên nhân rối loạn dẫn truyền xung động gây ra rối loạn nhịp tim. Dẫn truyền xung động trong trường hợp này diễn ra theo hai con đường khác nhau về cấu trúc và chức năng. Kích thích dẫn truyền đến sớm hơn gây nhịp tim rối loạn. Sau đó, kích thích sớm này bị ngăn chặn trên một con đường dẫn truyền và dẫn truyền chậm hơn ở đường còn lại. Tốc độ dẫn truyền đủ chậm để con đường dẫn truyền bị ngăn chặn ban đầu hồi phục, và kích thích được dẫn truyền ngược trở lại theo con đường bị chặn ban đầu, tạo ra một vòng vào lại. Dạng rối loạn nhịp tim gây ra do vòng vào lại là nhịp nhanh. Thay đổi nhịp là do tác động qua lại giữa các sóng đến sớm. Biến đổi vòng vào lại hợp nhất thể hiện sự tách biệt giữa đường vào và đường ra, có thể quan sát được trên điện tâm đồ.

Cơ chế vòng vào lại có thể tạo nên các rối loạn nhịp tim như nhịp nhanh nhĩ, thường bắt đầu với ngoại tâm thu nhĩ, cuồng nhĩ, nhịp nhanh thất vô căn, nhịp nhanh thất do tổn thương sẹo, nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất, ...

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

3.4K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan