Đột quỵ ở người trẻ: Chẩn đoán và điều trị

Bài viết được viết bởi ThS.BS Vũ Duy Dũng - Bác sĩ Chuyên khoa Thần Kinh - Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

Ở mỗi bệnh nhân đột quỵ, trẻ hay già, cách tiếp cận phổ biến nhất là điều trị triệu chứng cấp cứu (nếu có thể), tiếp theo là một quy trình chẩn đoán để tìm ra nguyên nhân nền và dự phòng thứ phát.

Quản lý trong giai đoạn cấp – ví dụ, điều trị tiêu huyết khối đường tĩnh mạch, lấy huyết khối trong động mạch (tới 24 giờ sau khởi phát triệu chứng, dựa trên tiêu chuẩn hình ảnh), hoặc cả hai – và nhận bệnh nhân vào một đơn vị chuyên về đột quỵ, là tương tự nhau đối với cả người trẻ và người già bị đột quỵ.

Tiêu huyết khối đường tĩnh mạch đã được chứng minh là an toàn và nhiều lợi ích hơn ở người trẻ, với tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp hơn so với bệnh nhân già. Lấy huyết khối ở người trẻ đột quỵ có vẻ ít biến chứng hơn bệnh nhân già, với bằng chứng nổi lên của đặt stent an toàn ở động mạch cảnh trong đoạn ngoài sọ bị tắc trước khi lấy huyết khối ở người trẻ có tắc động mạch trong sọ đoạn gần; mặc dù còn ít dữ liệu.

Trong trường hợp tình trạng thần kinh xấu đi do nhồi máu động mạch não giữa ác tính, mở hộp sọ giải áp sớm (trong vòng 48 giờ diễn biến thần kinh xấu hơn) cần được cân nhắc, vì nó làm giảm nguy cơ tử vong và cải thiệu kết quả chức năng.

Những người trẻ thường không được mô tả đủ mức trong các thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên nghiên cứu về hiệu quả của dự phòng thứ phát. Sự không đủ mức này là một điều không may mắn, vì tỷ lệ lưu hành của các yếu tố nguy cơ mạch máu truyền thống đang tăng lên ở người trẻ đột quỵ là một nguy cơ cao cho đột quỵ tái phát và tử vong hơn là nhóm chứng khỏe mạnh, đặc biệt là những người đột quỵ do bệnh động mạch lớn hoặc thuyên tắc từ tim.

Vì các hướng dẫn là không cụ thể cho người trẻ đột quỵ, các khuyến cáo dự phòng thứ phát được ngoại suy từ những bệnh nhân già đột quỵ (thường là xơ vữa động mạch), bao gồm liệu pháp chống tiểu cầu kéo dài cho phần lớn các nguyên nhân đột quỵ. Ngoại lệ là lóc tách động mạch vùng cổ, khi mà liệu pháp có thể dừng sau 6 tháng, và với một nguyên nhân thuyên tắc từ tim, ở đó thuốc chống đông đường uống được chỉ định.

Vì quản lý những bệnh nhân trẻ đột quỵ và những bệnh nhân già đột quỵ nhìn chung là tương tự nhau, bảng phân tích dưới đây sẽ tập trung vào chẩn đoán và điều trị những nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của đột quỵ ở người trẻ cùng với những tiến bộ quan trọng (kỹ thuật mới hoặc liệu pháp mới) (Bảng 1).

Bảng 1: Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của đột quỵ (sắp xếp theo phân loại TOAST) ở người trẻ với các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và điều trị

A1
a2.jpg
a3.jpg
a4.jpg
Bảng 1: Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của đột quỵ (sắp xếp theo phân loại TOAST) ở người trẻ với các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và điều trị

Chú thích:

CeAD = lóc tách động mạch vùng cổ

CRP = protein phản ứng C

PACNS = viêm mạch máu nguyên phát của hệ thần kinh trung ương

TIA = cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua

ECG = điện tâm đồ

PFO = còn lỗ bầu dục

TEE = siêu âm tim qua thực quản

TTE = siêu âm tim qua thành ngực

RoPE = nguy cơ thuyên tắc mạch nghịch thường

NNT = số lượng cần để có lợi

NNH = số lượng cần để gây hại

CADASIL = bệnh động mạch não gen trội nhiễm sắc thể thường với các ổ nhồi máu dưới vỏ và bệnh não chất trắng

HELLP = tan máu, tăng enzyme gan, và giảm tiểu cầu

SLE = lupus ban đỏ hệ thống

ANA = kháng thể kháng nhân

ANCA = kháng thể kháng bào tương bạch cầu đa nhân trung tính

ESR = tốc độ máu lắng

MELAS = bệnh não ty thể, toan lactic và các đợt bệnh giống đột quỵ.

hình ảnh chụp mạch máu não DSA của một bệnh nhân nữ 42 tuổi nhồi máu não nhiều lần
hình ảnh chụp mạch máu não DSA của một bệnh nhân nữ 42 tuổi nhồi máu não nhiều lần

Các hình ảnh chụp mạch máu não DSA của một bệnh nhân nữ 42 tuổi nhồi máu não nhiều lần, nhiều ổ, thuộc nhiều diện động mạch khác nhau: thấy hẹp mạch máu não từng đoạn của các mạch máu vừa và nhỏ, nghĩ tới Viêm mạch máu não.

Phương pháp chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) hút huyết khối qua ống thông để điều trị huyết khối cấp tính động mạch não là phương pháp tối ưu. Phương pháp chụp DSA hút huyết khối qua ống thông được thực hiện bằng cách đưa ống thông có đường kính phù hợp vào tới vị trí cục huyết khối, sau đó tiến hành hút áp lực âm để loại bỏ cục huyết khối.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiệm hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại. Bệnh viện cung cấp dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp, không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Khách hàng khi chọn thực hiện các xét nghiệm tại đây có thể hoàn toàn yên tâm về độ chính xác của kết quả xét nghiệm.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết tham khảo nguồn:

Ekker MS, Boot EM, Singhal AB, Tan KS, Debette S, Tuladhar AM, de Leeuw FE. Epidemiology, aetiology, and management of ischaemic stroke in young adults. Lancet Neurol 2018; 17: 790-801.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

1.6K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan