Các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư vú

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguy cơ mắc ung thư vú của bạn là do sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố chính gồm: phụ nữ và già đi. Hầu hết ung thư vú được phát hiện ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên. Vâỵ cụ thể nguyên nhân ung thư vú và các yếu tố nguy cơ của căn bệnh này là gì?

1. Nguyên nhân của ung thư vú

Ung thư vú xảy ra khi một số tế bào vú bắt đầu phát triển bất thường. Các tế bào này phân chia nhanh hơn các tế bào khỏe mạnh và tiếp tục tích tụ, tạo thành một khối. Các tế bào có thể lây lan (di căn) từ vú đến các hạch bạch huyết hoặc đến các bộ phận khác của cơ thể.

Ung thư vú thường bắt đầu với các tế bào trong ống dẫn sữa (ung thư vú thể xâm nhập). Ung thư vú cũng có thể bắt đầu trong mô tuyến được gọi là tiểu thùy (Ung thư biểu mô tiểu thùy xâm lấn) hoặc trong các tế bào hoặc mô khác trong vú.

Các nhà nghiên cứu đã xác định các yếu tố nội tiết tố, lối sống và môi trường có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nhưng không rõ tại sao một số người không có yếu tố nguy cơ lại phát triển ung thư, trong khi những người khác có yếu tố nguy cơ lại không bao giờ bị ung thư vú. Có khả năng ung thư vú là do sự tương tác phức tạp giữa cấu tạo gen và môi trường sống.

Hướng dẫn cách phát hiện ung thư vú sớm
Ung thư vú xảy ra khi một số tế bào vú bắt đầu phát triển bất thường

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư vú

Các yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú ở phụ nữ:

Tuổi tác. Nguy cơ phát triển ung thư vú tăng lên khi phụ nữ già đi, với hầu hết các bệnh ung thư phát triển ở phụ nữ trên 50 tuổi.

Tiền sử cá nhân của bệnh ung thư vú. Một phụ nữ đã bị ung thư vú ở một bên vú có nguy cơ phát triển ung thư mới ở bên vú còn lại.

Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú. Ung thư vú có thể di truyền trong gia đình trong bất kỳ trường hợp nào sau đây:

  • Có 1 hoặc nhiều phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở tuổi 45 trở xuống
  • Có 1 hoặc nhiều phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trước 50 tuổi có kèm theo yếu tố như tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư, chẳng hạn như ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt di cănung thư tuyến tụy
  • Có người mắc bệnh ung thư vú và / hoặc ung thư buồng trứng ở nhiều thế hệ ở một bên gia đình, chẳng hạn như có cả bà nội và cô ở bên gia đình của bố đều được chẩn đoán mắc một trong những bệnh ung thư này
  • Một người phụ nữ trong gia đình được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú thứ phát ở cùng một bên hoặc vú bên đối diện hoặc bị cả ung thư vú và ung thư buồng trứng
  • Một người thân nam giới được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú
  • Có ít nhất 1 người thân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú khi dưới 50 tuổi hoặc ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt và / hoặc ung thư tuyến tụy
  • Có tổ tiên Do Thái Ashkenazi

>>> Đột biến gen BRCA gây nguy cơ ung thư vú: Ai nên làm xét nghiệm?

Ban cần lưu ý nên xin ý kiến tư vấn của bác sĩ nếu trong gia đình có xuất hiện bất kỳ trường hợp nào ở trên. Đó có thể là dấu hiệu cho thấy gia đình bạn mang đột biến gen di truyền ung thư vú, chẳng hạn như BRCA1 hoặc BRCA2.

Khi xem xét tiền sử gia đình, điều quan trọng là phải xem xét bên phía gia đình của bố bạn, do di truyền bên phía nội cũng quan trọng không kém phía ngoại trong việc xác định nguy cơ phát triển ung thư vú của bạn.

Nguy cơ di truyền / khuynh hướng di truyền. Có một số gen di truyền có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú, cũng như các loại ung thư khác. BRCA1 hoặc BRCA2 là những đột biến phổ biến nhất được biết đến trong bệnh ung thư vú. Các đột biến trong các gen này có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng, cũng như các loại ung thư khác. Nguy cơ ung thư vú ở nam giới, cũng như nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và các bệnh ung thư khác cũng đều tăng lên nếu anh ta có đột biến ở một trong những gen này.

Hẹp môn vị là bệnh lý có liên quan đến yếu tố gia đình và di truyền
Có một số gen di truyền có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú, cũng như các loại ung thư khác

Các đột biến gen khác hoặc các tình trạng bệnh lý di truyền có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Các đột biến này ít phổ biến hơn BRCA1 hoặc BRCA2, và chúng không làm tăng nhiều nguy cơ ung thư vú. Ví dụ:

Tiền sử cá nhân của bệnh ung thư buồng trứng. Đột biến gen BRCA1 và BRCA2 làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư vú. Do đó, những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng di truyền do đột biến gen BRCA cũng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.

Có kinh sớm và mãn kinh muộn. Phụ nữ bắt đầu hành kinh trước 11, 12 tuổi hoặc mãn kinh sau 55 tuổi có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút. Điều này là do các tế bào vú của họ đã tiếp xúc với estrogen và progesterone trong một thời gian dài hơn. Estrogen và progesterone là các hormone ở phụ nữ kiểm soát sự phát triển của các đặc điểm giới tính phụ, chẳng hạn như sự phát triển của vú và mang thai. Việc sản xuất estrogen và progesterone của phụ nữ giảm dần theo tuổi tác, giảm mạnh vào thời kỳ mãn kinh và tiếp xúc lâu hơn với các hormone này sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Thời điểm mang thai. Phụ nữ mang thai lần đầu sau 35 tuổi hoặc chưa từng mang thai đủ tháng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Mang thai có thể giúp bảo vệ khỏi ung thư vú vì nó đẩy các tế bào vú vào giai đoạn trưởng thành cuối cùng.

Liệu pháp thay thế hormone sau khi mãn kinh. Sử dụng liệu pháp hormone cả estrogen và progestin sau khi mãn kinh, thường được gọi là liệu pháp hormone sau mãn kinh hoặc liệu pháp thay thế hormone, trong vòng 5 năm hoặc trong vài năm sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú của phụ nữ.

HRT
Sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong vòng 5 năm hoặc trong vài năm sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú của phụ nữ

Tăng sản không điển hình của vú. Chẩn đoán này làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú trong tương lai. Nó được đặc trưng bởi các tế bào bất thường, nhưng không phải ung thư, được tìm thấy khi thực hiện sinh thiết vú.

Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ (LCIS). LCIS ​​đề cập đến các tế bào bất thường được tìm thấy trong các tiểu thùy hoặc tuyến của vú. Nó không được coi là ung thư. Tuy nhiên, LCIS ở 1 bên vú làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú xâm lấn ở cả hai bên vú trong tương lai. Nếu LCIS được tìm thấy trong quá trình sinh thiết, người bệnh có thể cần thực hiện thêm các xét nghiệm khác.

Mật độ vú. Mô vú dày đặc có thể khiến việc phát hiện khối u khó khăn hơn trong các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh, chẳng hạn như chụp nhũ ảnh. Có mô vú dày đặc thường có nghĩa là bạn có nhiều tuyến sữa, ống dẫn sữa và mô nâng đỡ ở vú hơn là mô mỡ. Khi chụp nhũ ảnh, bác sĩ có thể gặp khó khăn hơn để phân biệt khối u với mô nền bình thường khác khi mô dày đặc. Mật độ vú có thể do nồng độ estrogen cao hơn chứ không phải là một yếu tố nguy cơ riêng biệt và nó thường giảm dần theo tuổi tác. Tuy nhiên, tại thời điểm này, không có hướng dẫn kiểm tra đặc biệt nào dành cho phụ nữ có bộ ngực dày.

>>> Liên quan giữa mật độ vú và nguy cơ ung thư vú

Các yếu tố về lối sống. Cũng như các loại ung thư khác, các nghiên cứu tiếp tục chỉ ra rằng các yếu tố lối sống khác nhau có thể góp phần vào sự phát triển của ung thư vú.

  • Cân nặng. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng phụ nữ sau mãn kinh bị thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Những phụ nữ này cũng có nguy cơ cao bị ung thư tái phát sau khi điều trị.
  • Hoạt động thể chất. Ít hoạt động thể có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư vú và nguy cơ ung thư tái phát cao hơn sau khi điều trị. Hoạt động thể chất thường xuyên, chẳng hạn như 3 đến 4 giờ tập thể dục vừa phải mỗi tuần, có thể bảo vệ chống lại ung thư vú bằng cách giúp phụ nữ duy trì trọng lượng cơ thể khỏe mạnh, giảm mức độ hormone hoặc giảm những thay đổi trong quá trình trao đổi chất hoặc suy giảm yếu tố miễn dịch của phụ nữ, đồng thời, tăng cường các “tế bào tiêu diệt tự nhiên” để chống lại các tế bào bất thường. Duy trì trọng lượng cơ thể khỏe mạnh cũng có thể bảo vệ khỏi ung thư tái phát sau khi được chẩn đoán ung thư vú.
  • Rượu. Nghiên cứu hiện tại cho thấy uống nhiều hơn 1 đến 2 khẩu phần rượu, bao gồm bia, rượu và rượu mạnh, mỗi ngày làm tăng nguy cơ ung thư vú, cũng như nguy cơ ung thư tái phát sau khi điều trị. Bạn nên hạn chế uống rượu ở mức 3 đến 4 khẩu phần ăn mỗi tuần.
  • Món ăn. Không có nghiên cứu đáng tin cậy nào khẳng định rằng ăn hoặc tránh các loại thực phẩm cụ thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú hoặc ung thư tái phát sau khi điều trị. Tuy nhiên, ăn nhiều trái cây và rau quả và sử dụng ít chất béo động vật có liên quan đến nhiều lợi ích sức khỏe.
  • Các yếu tố về kinh tế xã hội. Những phụ nữ giàu có hơn ở tất cả các nhóm chủng tộc và dân tộc có nguy cơ phát triển ung thư vú cao hơn so với những phụ nữ ít giàu hơn trong cùng các nhóm. Lý do cho sự khác biệt này không được biết đến, nhưng nó không phải do tình trạng kinh tế xã hội. Thay vào đó, nguy cơ gia tăng liên quan đến sự khác biệt về các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ có trình độ học vấn và thu nhập khác nhau. Những khác biệt này có thể là do sự thay đổi trong chế độ ăn uống, tiếp xúc với môi trường và các yếu tố nguy cơ khác. Những phụ nữ sống trong nghèo khó có nhiều khả năng được chẩn đoán ở giai đoạn nặng hơn và ít có khả năng sống sót sau căn bệnh hơn những phụ nữ giàu có hơn. Điều này có thể do nhiều yếu tố, bao gồm yếu tố lối sống và các tình trạng sức khỏe khác như béo phì và sinh học khối u.
  • Tiếp xúc với bức xạ khi còn trẻ. Tiếp xúc với bức xạ ion hóa khi còn trẻ có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Ví dụ, bức xạ điều trị vào ngực đối với ung thư hạch Hodgkin có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú ở cả hai vú. Lượng bức xạ rất nhỏ mà một phụ nữ nhận được trong quá trình chụp nhũ ảnh không liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết tham khảo nguồn: iconcancercentre.sg, cancer.net, cdc.gov

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

142 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan