Vai trò của phép đo khối phổ-phản ứng chuyển proton trong chẩn đoán ung thư thực quản (Phần 1)

Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Phép đo khối phổ-phản ứng chuyển proton (Proton Transfer Reaction-Mass Spectrometry) là phương pháp sử dụng hơi thở để kiểm tra bệnh nhân có bị ung thư thực quản hay không.

1 Tổng quan về ung thư thực quản

Ung thư thực quản là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ 6 trên toàn thế giới . Về mặt mô học, nó được phân thành 2 loại phụ, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến, mỗi loại có một nguồn gốc tế bào cụ thể, bệnh sinh và dịch tễ học.

Các kỹ thuật tiêu chuẩn vàng hiện nay để phát hiện và chẩn đoán ung thư thực quản là nội soi và sinh thiết là xâm lấn. Hơn nữa, do không có các triệu chứng ở giai đoạn bệnh sớm hơn, biểu hiện và chẩn đoán thường xảy ra muộn, dẫn đến tiên lượng xấu và tỷ lệ sống sót sau 5 năm thấp tới 15% . Chẩn đoán sớm có liên quan đến tỷ lệ sống sót sau 5 năm cao hơn nhiều, và khi chỉ giới hạn trong bệnh niêm mạc, tỷ lệ sống sót cụ thể lên đến 98% được báo cáo.

Cần có các phương pháp chẩn đoán tốt hơn để chuyển phần lớn các chẩn đoán sang giai đoạn sớm nhất và việc mở rộng khả năng tiếp cận với nội soi thực quản thông thường và sử dụng rộng rãi hơn trong bối cảnh sàng lọc không hiệu quả về mặt chi phí. Các dấu ấn sinh học tối thiểu và không xâm lấn, chủ yếu trong máu và hơi thở, đại diện cho các ứng cử viên có khả năng nhất để tạo điều kiện phát hiện sớm ung thư thực quản.

Ung thư thực quản giai đoạn sớm được nhìn thấy qua nội soi
Ung thư thực quản giai đoạn sớm được nhìn thấy qua nội soi

2 Dấu ấn sinh học là gì?

Một số chỉ dấu sinh học ứng viên cho bệnh ung thư thực quản đã được đề xuất. Tuy nhiên, việc chuyển dịch chúng vào sử dụng lâm sàng rất chậm. Dấu ấn sinh học có thể được định nghĩa rộng rãi là các thông số có thể định lượng được giúp phân biệt các quá trình bình thường với bệnh lý với các ứng dụng để chẩn đoán, tiên lượng và điều chỉnh điều trị bệnh nhân. Trong bài viết này, chúng tôi tóm tắt những hiểu biết gần đây về sự phát triển và xác nhận lâm sàng của các dấu ấn sinh học ung thư thực quản. Có một nhóm nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện đánh giá các dấu ấn sinh học dựa trên mô trong ung thư thực quản, bài đánh giá này đã chủ ý tập trung vào các phương pháp xâm lấn tối thiểu và không xâm lấn để phát hiện ung thư thực quản, các dấu hiệu lưu hành chủ yếu trong máu và khu vực mới nổi của hơi thở và dấu ấn sinh học mùi. Sự phát triển của các dấu ấn sinh học mạnh mẽ, xâm lấn tối thiểu, hiệu quả về chi phí cho ung thư sớm sẽ thay đổi các mô hình chẩn đoán, tiên lượng và giám sát hiện tại, đồng thời có thể mở ra khả năng sàng lọc dân số.

Dấu ấn sinh học ngày càng được sử dụng nhiều trong chẩn đoán bệnh ung thư
Dấu ấn sinh học ngày càng được sử dụng nhiều trong chẩn đoán bệnh ung thư

3. Các phương pháp chẩn đoán hiện nay của ung thư thực quản

Việc chẩn đoán ung thư thực quản và các tổn thương tiền ác tính của nó hiện chỉ giới hạn trong nội soi và phân tích sinh thiết sau đó. Nội soi là một thủ thuật chẩn đoán xâm lấn cao và tốn kém và là kỹ thuật chẩn đoán tiêu chuẩn vàng hiện nay đối với ung thư thực quản và các tổn thương tiền ung thư của nó. Nội soi ánh sáng trắng tiêu chuẩn bị giới hạn trong phạm vi của nó, chỉ giới hạn trong việc xác định các bất thường vĩ mô có thể chỉ ra ung thư, chẳng hạn như nốt và vết loét, do đó không xác định được các tổn thương sớm có vẻ bình thường về mặt đại thể. Trong khi thực quản Barrett có thể nhìn thấy qua nội soi, thì việc loạn sản trong đoạn Barrett khó xác định hơn vì các tổn thương thường phẳng và khó phân biệt với biểu mô trụ không loạn sản xung quanh .

Giám sát bằng nội soi và sinh thiết thường được khuyến cáo cho bệnh nhân Barrett thực quản, để chẩn đoán ung thư thực quản ở giai đoạn sớm nhất. Do tỷ lệ tiến triển thấp của các tổn thương sớm, chẳng hạn như Barrett thực quản thành ung thư biểu mô tuyến và chi phí theo dõi nội soi, nên việc áp dụng các quy trình chẩn đoán hiện tại trong các chương trình giám sát ung thư thực quản có thể không hiệu quả và các chương trình sàng lọc chưa bao giờ được coi là khả thi. Do đó, nhu cầu cấp thiết về sự phát triển của các kỹ thuật chẩn đoán chọn lọc hơn và ít xâm lấn hơn cho những cá nhân có nguy cơ ung thư thực quản.

Hiện nay, khám sàng lọc ung thư đường tiêu hoá là biện pháp khoa học và hiệu quả để phát hiện sớm ung thư đường tiêu hóa (ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư đại tràng) và đưa ra phác đồ điều trị tốt. Hiện tại, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec có Gói tầm soát và phát hiện sớm ung thư đường tiêu hóa (thực quản - dạ dày - đại tràng) kết hợp khám lâm sàng và cận lâm sàng để đem lại kết quả chính xác nhất có thể.

Trước phẫu thuật bệnh nhân được khám sàng lọc
Hiện nay, khám sàng lọc ung thư đường tiêu hoá là biện pháp khoa học và hiệu quả để phát hiện sớm ung thư đường tiêu hóa

Khi sàng lọc ung thư đường tiêu hóa tại Vinmec, Quý khách sẽ được:

  • Khám Chuyên khoa Nội tiêu hóa với bác sĩ chuyên khoa ung bướu (có hẹn).
  • Nội soi dạ dày và nội soi đại tràng với máy nội soi NBI có gây mê.
  • Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi (bằng máy đếm laser).
  • Xét nghiệm thời gian prothrombin bằng máy tự động.
  • Xét nghiệm thời gian thrombin bằng máy tự động.
  • Xét nghiệm thời gian thromboplastin một phần hoạt hoá (APTT: Activated Partial Thromboplastin Time) bằng máy tự động.
  • Siêu âm ổ bụng tổng quát

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

1. Pakzad R, Mohammadian-Hafshejani A, Khosravi B, Soltani S, Pakzad I, Mohammadian M, Salehiniya H, Momenimovahed Z. The incidence and mortality of esophageal cancer and their relationship to development in Asia. Ann Transl Med. 2016;4:29. [PubMed] [DOI]

2. Bystricky B, Okines AF, Cunningham D. Optimal therapeutic strategies for resectable oesophageal or oesophagogastric junction cancer. Drugs. 2011;71:541-555. [PubMed] [DOI]

3. Bandla S, Pennathur A, Luketich JD, Beer DG, Lin L, Bass AJ, Godfrey TE, Litle VR. Comparative genomics of esophageal adenocarcinoma and squamous cell carcinoma. Ann Thorac Surg. 2012;93:1101-1106. [PubMed] [DOI]

4. Bird-Lieberman EL, Fitzgerald RC. Early diagnosis of oesophageal cancer. Br J Cancer. 2009;101:1-6. [PubMed] [DOI]

5. Yentz S, Wang TD. Molecular imaging for guiding oncologic prognosis and therapy in esophageal adenocarcinoma. Hosp Pract (1995). 2011;39:97-106. [PubMed] [DOI]

6. Jankowski J, Barr H, Wang K, Delaney B. Diagnosis and management of Barrett’s oesophagus. BMJ. 2010;341:c4551. [PubMed] [DOI]

7. Roger Yazbeck, Simone E Jaenisch, David I Watson. From blood to breath: New horizons for esophageal cancer biomarkers, World J Gastroenterol. Dec 14, 2016; 22(46): 10077-10083.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

70 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan