Đặc điểm giải phẫu mạch máu ổ bụng

Được giới hạn ở phía trên bởi cơ hoành và mở rộng ra phía dưới vào khung chậu, ổ bụng chứa hầu hết các cơ quan của hệ tiêu hóa và các bộ phận của hệ tiết niệu sinh dục. Mạch máu ổ bụng cung cấp máu cho các cơ quan và lớp mô khác nhau. Theo đó, giải phẫu mạch máu ổ bụng là một trong những hệ thống mạch máu phức tạp nhất trong cơ thể. Việc hiểu biết về giải phẫu mạch máu ổ bụng là rất quan trọng đối với kiến thức bệnh lý lâm sàng và phẫu thuật.

1. Cấu trúc và chức năng giải phẫu mạch máu ổ bụng

Cung cấp máu cho ổ bụng là bởi các nhánh của giải phẫu động mạch chủ bụng. Động mạch chủ bụng là đoạn nối tiếp của động mạch chủ ngực vào khoang bụng bằng cách xuyên qua cơ hoành gần với đốt sống ngực thứ mười hai. Động mạch chủ bụng chia đôi xung quanh đốt sống thắt lưng thứ tư và thứ năm, cung cấp một mạng lưới rộng lớn gồm các nhánh cho ổ bụng và các nhánh sau cho xương chậu và các chi dưới.

Dẫn lưu tĩnh mạch của ổ bụng là bởi tĩnh mạch chủ dưới và các nhánh của nó. Máu từ tĩnh mạch cửa đi qua gan và cuối cùng chảy vào tĩnh mạch chủ dưới. Các tĩnh mạch chủ dưới xuất phát tại vị trí đốt sống thắt lưng thứ năm bằng cách nối bên trái với các tĩnh mạch chậu chung bên phải. Nó đi lên phía trước cột sống, ngay tới động mạch chủ bụng, sau đó xuyên qua cơ hoành ở đốt sống ngực thứ tám ngay trước khi đổ vào tâm nhĩ phải trong lồng ngực.

2. Giải phẫu động mạch ổ bụng

Các động mạch bụng phát sinh từ giải phẫu động mạch chủ bụng, đi vào ổ bụng qua lỗ động mạch chủ của cơ hoành gần đốt sống T12 và đi xuống, bên trái đến tĩnh mạch chủ dưới và trước thân đốt sống. Trước khi phân đôi ở đốt sống L4, động mạch chủ cung cấp cho các động mạch thận và ba thân chính cung cấp các cơ quan nuôi dưỡng.

Các nhánh của động mạch chủ bụng bao gồm ba thân chính là động mạch thân tạng, động mạch mạc treo tràng trên và mạc treo tràng dưới, sáu nhánh ghép đôi và một động mạch xương cùng trung gian.

Tất cả các động mạch trên đều được sắp xếp hợp lý để cung cấp đủ lượng máu đến các cơ quan giàu mạch máu trong ổ bụng. Ba lỗ thông động mạch chính của ổ bụng tồn tại. Đầu tiên là lỗ giữa động mạch thân tạng và động mạch mạc treo tràng trên qua các động mạch tụy tá tràng. Thứ hai là lỗ tồn tại giữa động mạch mạc treo tràng trên và mạc treo tràng dưới thông qua động mạch ổ bụng giữa và trái. Thứ ba là lỗ thông nối giữa mạc treo tràng dưới và động mạch chậu trong qua động mạch trực tràng trên và giữa hoặc dưới.

Khi gần đến mức của đốt sống thắt lưng thứ tư, động mạch chủ bụng phân đôi thành các động mạch chậu chung phải và trái. Từ đó, mỗi động mạch chậu chung chạy bên và tiếp tục chia nhỏ thành động mạch chậu ngoài và động mạch chậu trong ở mỗi bên. Sau đó động mạch chậu ngoài đi xuống hố chậu và trở thành động mạch đùi nằm sau dây chằng bẹn. Động mạch chậu trong là nguồn cung cấp máu chính cho xương chậu.

Thành bụng trước bên có nguồn cung cấp động mạch phức tạp. Các động mạch chính là thượng vị trên và các nhánh của các mạch cơ, sau đó có các mạch mạc nối sâu và vùng thượng vị thấp hơn đến từ các động mạch chậu ngoài. Tiếp theo, là các động mạch ngoại bì và thượng vị bề ngoài xuất phát từ động mạch đùi và mạc nối lớn. Cuối cùng là các động mạch liên sườn sau và các nhánh của các động mạch dưới sườn. Các động mạch của thành bụng trước bên được sắp xếp theo chu vi, giống như các động mạch liên sườn.

Mặt khác, các động mạch của thành bụng trung tâm được định hướng theo chiều dọc. Động mạch thượng vị trên là phần tiếp nối của động mạch lồng ngực trong, cung cấp phần trên của trực tràng và kết nối với động mạch thượng vị dưới ở mức độ của rốn. Động mạch thượng vị dưới xuất phát từ động mạch chậu ngoài. Động mạch vòng sâu cũng xuất phát từ động mạch chậu ngoài và cung cấp cho cơ hồi tràng. Động mạch đùi có hai nhánh, cụ thể là động mạch chậu ngoài cung cấp cho thành bụng bề ngoài ở vùng bẹn và động mạch thượng vị bề ngoài cung cấp thành bụng nông ở vùng mu.

3. Giải phẫu tĩnh mạch ổ bụng

Tĩnh mạch chủ dưới là đường dẫn lưu toàn hệ thống tĩnh mạch ổ bụng, được hình thành do sự nối tiếp của hai tĩnh mạch chậu chung tại đốt sống L5. Tất cả các chất từ phủ tạng bụng phía trên đi qua gan từ tĩnh mạch cửa gan rồi vào đến gan. Từ xoang gan, máu tĩnh mạch thoát về tĩnh mạch gan rồi đổ vào tĩnh mạch chủ dưới và đổ thẳng vào tâm nhĩ phải để được cung cấp ôxy.

Tĩnh mạch cửa dẫn lưu tất cả các tĩnh mạch từ phần bụng của ống tiêu hóa ngoại trừ phần dưới của trực tràng và ống hậu môn. Đây cũng là đường thoát các tĩnh mạch đến từ lá lách, tuyến tụy và túi mật. Tĩnh mạch cửa có chiều dài 8cm và được hình thành phía sau cổ tụy ở mức đốt sống L2 bởi sự kết hợp của tĩnh mạch mạc treo tràng trên và tĩnh mạch lách. Đây là tĩnh mạch chính cung cấp máu đặc biệt cho gan với đầy đủ các chất dinh dưỡng được hấp thụ từ kênh phân giải để trao đổi chất. Các nhánh của nó bao gồm tĩnh mạch mạc treo tràng trên, tĩnh mạch lách, tĩnh mạch dạ dày phải, tĩnh mạch dạ dày trái, tĩnh mạch nang, tĩnh mạch cạnh rốn và tĩnh mạch tụy tá tràng trên. Các nhánh của tĩnh mạch cửa nối liền mạch với các nhánh của tĩnh mạch chủ dưới tại các vị trí khác nhau trong cơ thể, và những vị trí này được gọi là nối thông động tĩnh mạch cửa. Những vị trí này khá liên quan về mặt lâm sàng và nằm ở đầu dưới của thực quản, vùng trống của gan, ở rốn, phần cuối của trực tràng và ống hậu môn.

Dòng chảy của tĩnh mạch vùng chậu hình thành bởi sự hợp lưu của các tĩnh mạch liền kề trong vùng chậu. Các đám rối khác nhau chủ yếu dẫn lưu vào tĩnh mạch chậu trong với một số dẫn lưu vào tĩnh mạch trực tràng trên và đi đến hệ thống cổng gan. Một con đường nhỏ khác để dẫn lưu tĩnh mạch cho phụ nữ là tĩnh mạch buồng trứng. Các tĩnh mạch mông trên là các nhánh lớn nhất của các tĩnh mạch chậu trong.

4. Các biến thể sinh lý trong giải phẫu mạch máu ổ bụng

Một biến thể phổ biến đang xảy ra ở 20% dân số trong giải phẫu mạch máu ổ bụng là có một động mạch phụ phát sinh từ động mạch thượng vị dưới và đi xuống khung chậu dọc theo tuyến của nhánh mu. Một biến thể khác hiếm gặp về nguồn gốc của động mạch mạc treo tràng dưới, thượng thận trên và động mạch thượng thận dưới như một thân chung từ động mạch thận phải.

Có một biến thể mạch máu của nhánh nối thông giữa động mạch thượng vị dưới và mạch bịt trong ống bịt. Một biến thể khác bao gồm động mạch bịt phụ phát sinh từ động mạch chậu ngoài và tạo thành một kết nối với động mạch bịt đi ra khỏi động mạch chậu trong.

Những kiến thức như vậy về các biến thể của giải phẫu mạch máu ổ bụng là khá quan trọng trong các quy trình chẩn đoán bệnh lý và can thiệp phẫu thuật.

5. Các bệnh lý liên quan với mạch máu ổ bụng

Hệ thống mạch máu ổ bụng và vùng chậu chứa vô số các động mạch và tĩnh mạch cần đặc biệt lưu ý trong quá trình phẫu thuật. Một số ví dụ như chấn thương khi rạch bụng và xương chậu, tổn thương niệu quản trong phẫu thuật vùng chậu hoặc các tuyến di căn ác tính.

Động mạch thượng vị dưới có thể bị thương khi rạch thành bụng dưới. Việc đặt trocars trong quá trình phẫu thuật nội soi cũng có thể dẫn đến thương tích mạch máu ổ bụng. Khi những điều này xảy ra, máu tụ ở thành bụng phát sinh và có thể mở rộng đến một kích thước đáng kể vì mạch máu ổ bụng có sức đề kháng của mô rất kém ở khu vực tại chỗ.

Trong khi mổ lấy thai và cắt tử cung, phẫu thuật viên có thể gây ra chấn thương động mạch tử cung hoặc cắt bỏ khi vết mổ phạm vào dây chằng rộng. Trong tình huống này, sang chấn cũng có nguy cơ bị lọt vào trong vết khâu khi cố gắng cầm máu vì niệu quản gần động mạch tử cung.

Một cân nhắc phẫu thuật khác đối với mạch máu ổ bụng là trong quá trình sửa chữa thoát vị, bác sĩ phẫu thuật nên lưu ý về một biến thể phổ biến của động mạch phụ hoặc động mạch bịt bất thường. Biến thể này thường chạy cùng tuyến với nhánh mu của động mạch bịt và có thể bị hỏng trong quá trình phẫu thuật.

Các tĩnh mạch xương cùng bên nối liền với đám rối tĩnh mạch đốt sống bên trong và hoạt động như một đường thay thế để đến tĩnh mạch chủ; điều này trở nên quan trọng như một con đường lây lan di căn của ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư buồng trứng đến các vị trí đốt sống hoặc sọ não.

Chảy máu do giãn tĩnh mạch thực quản là một biến chứng thường gặp ở bệnh xơ gan do tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Tình trạng này dẫn đến xuất huyết nghiêm trọng ở lỗ nối hang ở đầu dưới của thực quản. Vị trí quan trọng khác của lỗ thông là ở đầu dưới của trực tràng và ống hậu môn, nơi mà sự biến đổi cấu trúc dẫn đến bệnh trĩ.

Tóm lại, vì ổ bụng và xương chậu chứa phần lớn các cơ quan nội tạng nên những vùng này cần được cung cấp bởi một mạng lưới giải phẫu mạch máu ổ bụng rộng khắp. Tất cả máu động mạch được cung cấp đến vùng này đều đi qua các nhánh giải phẫu động mạch chủ bụng và tất cả máu tĩnh mạch cuối cùng sẽ quay trở lại tĩnh mạch chủ dưới. Các cơ quan và mạch máu của ổ bụng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều quá trình bệnh, bao gồm viêm, nhiễm trùng, ung thư, tự miễn dịch, chấn thương và thoái hóa. Dù là tình trạng nào cũng như những tình trạng này có thể được điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật, việc đảm bảo cung cấp đủ máu cho vùng bị ảnh hưởng dựa trên nền tảng hiểu biết về giải phẫu mạch máu ổ bụng là yếu tố quan trọng để tiên lượng bệnh.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

8.8K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan