Vai trò của axit amin và khoáng chất trong bệnh viêm ruột

Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Bệnh nhân thường đặt câu hỏi về vai trò của chế độ ăn trong bệnh viêm ruột (IBD). Mặc dù có sự quan tâm đến chủ đề này, nhưng có rất ít sự đồng thuận về cách giải quyết chế độ ăn uống ở bệnh nhân IBD.

1. Tổng quan về vai trò của chế độ ăn trong bệnh viêm ruột

Các nghiên cứu trên động vật và nghiên cứu trên người dựa trên quần thể đóng vai trò là cơ sở kiến ​​thức cho các hiệp hội nguy cơ IBD. Những nghiên cứu như vậy đã chứng minh những tác động tích cực có thể xảy ra của axit béo omega-3, axit amin, polysaccharide thực vật, vitamin D, chất xơ, trái cây, rau và cá, ngoài những tác động có hại của tổng chất béo cao, thịt đỏ, omega- 6 axit béo, phụ gia thực phẩm và chế độ ăn uống chung của phương Tây. Dinh dưỡng đường ruột, liệu pháp ăn kiêng được nghiên cứu nhiều nhất trong IBD, đã chứng minh lợi ích ở bệnh nhân mắc bệnh Crohn.

Mong muốn của bác sĩ và mong muốn của bệnh nhân trong điều trị viêm ruột
Trong một hệ thống phân cấp nhu cầu của bệnh nhân viêm ruột được đề xuất gần đây, có sự mâu thuẫn giữa nhu cầu của bệnh nhân và trọng tâm của bác sĩ, đặc biệt là khi nói đến vai trò của chế độ ăn uống. Các bác sĩ lâm sàng có xu hướng tập trung vào việc xác định và đạt được các mục tiêu điều trị trong khi bệnh nhân thường quan tâm đến những gì họ có thể ăn và liệu chế độ ăn kiêng nào là hữu ích hay có hại đối với IBD. Mặc dù vai trò của chế độ ăn uống trong IBD ngày càng được thảo luận, nhưng nếu có, sự đồng thuận về chủ đề này vẫn còn hạn chế.

Dịch tễ học bệnh viêm ruột
Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của cả bệnh Crohn (CD) và viêm loét đại tràng (UC) đã tăng lên theo thời gian, và người ta cho rằng chế độ ăn uống có thể đóng một vai trò nào đó. Mặc dù tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành IBD vẫn cao nhất ở các khu vực công nghiệp hóa của Bắc Mỹ và Tây Âu, đã có sự gia tăng ở các khu vực có tỷ lệ hiện mắc thấp trước đây, bao gồm các khu vực châu Á, Nam Mỹ và Trung Đông. Lý do cho sự thay đổi toàn cầu này là không rõ ràng, nhưng một số yếu tố đã được đề xuất, bao gồm nhiễm trùng, tiêu chuẩn vệ sinh, thuốc men và chất ô nhiễm. Đáng chú ý, chế độ ăn uống cũng đã nổi lên như một yếu tố chính có thể góp phần làm tăng tỷ lệ mắc bệnh IBD ở các nước đang phát triển, phần lớn là do sự gia tăng của chế độ ăn phương Tây trên khắp thế giới. Hơn nữa, việc di cư từ vùng có tỉ lệ nhiễm thấp sang vùng có tỉ lệ nhiễm cao đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ phát triển IBD và gần đây có liên quan đến những thay đổi trong thành phần hệ vi sinh vật. Có khả năng là chế độ ăn uống và các yếu tố khác được lưu ý có liên quan tương tự với nguy cơ này. Hơn nữa, béo phì đã được đề xuất như một yếu tố lối sống liên quan đến chế độ ăn uống có thể liên quan đến tăng nguy cơ IBD. Những quan sát song song này cho thấy rằng chế độ ăn uống có thể đóng một vai trò trong sự thay đổi dịch tễ học toàn cầu của IBD.

Bệnh viêm ruột
Bệnh viêm ruột cần được phát hiện và điều trị sớm

2. Vai trò của một số axit amin trong bệnh viêm ruột

Một số axit amin cũng đã được nghiên cứu về vai trò của chúng trong chứng viêm ruột. Glutamine và arginine được cho là có tác dụng điều hòa miễn dịch và đã được chứng minh là cải thiện các biện pháp gây viêm trên mô hình chuột bị viêm đại tràng. Ngoài ra, histidine, một tiền chất của histamine, ức chế sản xuất cytokine tiền viêm trong một mô hình viêm đại tràng chuột. Threonine, có thể thông qua tác dụng có lợi của nó đối với việc sản xuất chất nhầy ở ruột, và tryptophan cũng đã được chứng minh là làm giảm viêm đại tràng trên mô hình lợn và chuột. Tương tự, polysaccharid thực vật, ngoài các sản phẩm thực vật dạng sợi, phần lớn đã được chứng minh là có tác dụng chống viêm. Cơ chế được đề xuất cho tác dụng này là tăng sản xuất SCFA, có tác dụng cải thiện chức năng hàng rào và khả năng dung nạp miễn dịch của tế bào màu. Các hợp chất có nguồn gốc thực vật khác, bao gồm curcumin, trà xanh, ngũ cốc lên men và polyphenol cũng đã chứng minh đặc tính chống viêm trên các mô hình động vật khác nhau.

Vai trò của vitamin và khoáng chất

Hơn nữa, một số vitamin và khoáng chất đã được nghiên cứu trong cơ chế bệnh sinh của IBD bằng cách sử dụng mô hình động vật bị viêm ruột. Vitamin D đáng chú ý đã được công nhận là một chất điều hòa các con đường miễn dịch như đã được chứng minh trên một số mô hình động vật. Ở những con chuột bị loại IL-10, sự thiếu hụt vitamin D và thụ thể vitamin D được chứng minh là làm tăng nhanh các triệu chứng IBD và tử vong. Vitamin D cũng được chứng minh là có thể duy trì tính toàn vẹn của niêm mạc trên mô hình chuột bị viêm đại tràng do DSS bằng cách làm giảm tác dụng của các kháng nguyên ánh sáng. Canxi đã được chứng minh là có vai trò quan trọng trong việc tăng cường các tác dụng này của vitamin D đối với việc điều hòa miễn dịch. Ngoài vitamin D, chế độ ăn uống và bổ sung sắt đã được chứng minh là có vai trò tiềm ẩn trong việc gây viêm ruột thông qua việc hình thành các gốc tự do oxy và cũng thông qua việc thay đổi hệ vi sinh vật đường ruột. Một mô hình viêm hồi tràng giống bệnh Crohn cho thấy sự suy giảm chất sắt trong máu có tác dụng ngăn ngừa chứng viêm.

Vai trò của phụ gia thực phẩm

Cuối cùng, phụ gia thực phẩm nói chung đã chứng minh tác dụng chống viêm nhiễm ở các mô hình động vật. Carboxymethylcellulose và polysorbate-80 đã được nghiên cứu trên chuột loại IL-10 và cho thấy có thể phá vỡ chức năng hàng rào ruột, cuối cùng dẫn đến tăng viêm ruột. Carrageenan và titanium dioxide (TiO2) cũng cho thấy có khả năng làm tăng tình trạng viêm ruột do phá vỡ hàng rào bảo vệ ruột. Malodextrin, một chất xơ hòa tan trong thực phẩm, được chứng minh là làm tăng tổng lượng IgA trong ruột. Hiệu ứng này cũng liên quan đến việc tăng sản xuất SCFA, nên vẫn chưa rõ tác dụng này là chống viêm hay chống.

Các nghiên cứu trên người về các khẩu phần ăn ảnh hưởng xấu đến bệnh viêm ruột
Mối liên quan đến rủi ro chế độ ăn uống với các mối liên quan giữa nguy cơ IBD với các yếu tố cụ thể trong chế độ ăn uống đã được nghiên cứu chủ yếu bằng cách sử dụng hai nhóm thuần tập dựa trên dân số lớn, Điều tra Triển vọng Châu Âu về Ung thư và Dinh dưỡng (EPIC) và Nghiên cứu Sức khỏe của Y tá. Mối liên quan giữa nguy cơ với lượng axit béo được nghiên cứu bởi cả hai nhóm. Trong nhóm thuần tập EPIC (n = 203,193; 126 trường hợp UC), ăn nhiều axit linoleic (axit béo omega-6 có trong dầu thực vật) có liên quan đến tăng nguy cơ phát triển UC (OR = 2,49, 95% CI 1,23 -5,07, p = 0,01). Ngược lại, tiêu thụ nhiều axit docosahexaenoic (axit béo omega-3 có trong dầu cá) có liên quan đến nguy cơ phát triển UC thấp hơn (OR = 0,59, KTC 95% 0,37-0,94, p = 0,03). Tương tự, Nghiên cứu Sức khỏe của Y tá cho thấy tỷ lệ omega-3: omega-6 tăng cũng có liên quan đến việc giảm nguy cơ phát triển UC (HR đa biến 0,69, KTC 95% 0,49-0,98, p = 0,03). Các y tá ' Nghiên cứu Sức khỏe cho thấy không có mối liên hệ nào giữa lượng axit béo và nguy cơ mắc CD.

Khẩu phần ăn có vai trò quan trọng trong cách điều trị bệnh viêm dạ dày ruột
Khẩu phần ăn có vai trò quan trọng trong cách điều trị bệnh viêm dạ dày ruột

Vai trò của hàm lượng chất xơ trong điều trị bệnh viêm ruột

Nhóm nghiên cứu Sức khỏe của EPIC cũng được sử dụng để kiểm tra nhiều yếu tố chế độ ăn uống khác. Một phân tích gần đây từ nghiên cứu EPIC (n = 401,326; 104 trường hợp CD, 221 trường hợp UC) đã kiểm tra lượng chất xơ trong chế độ ăn và cho thấy không có mối liên hệ đáng kể nào giữa lượng chất xơ và nguy cơ mắc CD hoặc UC. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác (vơi số lượng bệnh nhân n = 170,766; 269 trường hợp CD, 338 trường hợp UC), cho thấy rằng lượng chất xơ cao có liên quan đến việc giảm 40% nguy cơ mắc CD (HR 0,59 đa biến, 95% CI 0,39-0,90) nhưng không phải UC. Mối liên quan bảo vệ này với nguy cơ CD dường như là lớn nhất đối với chất xơ có nguồn gốc từ trái cây. Hơn nữa, nhóm thuần tập Nghiên cứu Sức khỏe II (n = 39,511; 70 trường hợp CD, 103 trường hợp UC) đã kiểm tra chế độ ăn ở trường trung học bằng cách sử dụng bảng câu hỏi tần suất thực phẩm đã được xác thực và cho thấy rằng chế độ ăn ở trường trung học bao gồm nhiều trái cây rau và cá có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc CD nhưng không giảm UC. Cần lưu ý rằng những phát hiện này có mức độ sai lệch thu hồi cao. Cuối cùng, một nghiên cứu khác (số bệnh nhân tham gia là n = 165,331; 261 trường hợp sự cố của CD, 321 trường hợp sự cố của UC) và thuần tập EPIC (n = 262.451; 193 trường hợp sự cố của UC, 84 trường hợp sự cố của CD) đã chứng minh không có mối liên hệ rủi ro nào với lượng sắt và heme trong chế độ ăn 46 và lượng rượu.

Vai trò của Vitamin D

Vitamin D ngày càng được công nhận vì vai trò tiềm năng của nó trong IBD và cho thấy mối liên hệ với cả nguy cơ IBD và kết quả IBD. Nhóm thuần tập Nghiên cứu Sức khỏe điều dưỡng (n = 72,719; 122 trường hợp CD, 123 trường hợp UC) cho thấy mối liên quan giữa việc tăng nồng độ vitamin D trong huyết tương được dự đoán là 25 (OH) và giảm nguy cơ CD (đa biến HR 0,55 , KTC 95% 0,30-1,00, p = 0,02). Ngoài ra, tăng lượng vitamin D bổ sung có liên quan đến việc giảm nguy cơ UC (HR 0,64, KTC 95% 0,37-1,10, p = 0,04). Hơn nữa, dữ liệu theo dõi 5 năm từ một cơ quan đăng ký IBD theo chiều dọc cho thấy nồng độ vitamin D thấp có liên quan đến việc sử dụng nhiều steroid, sinh học, chất gây nghiện, nhập viện, khám tại khoa cấp cứu và phẫu thuật (p <0,05) ở bệnh nhân CD và UC. Nói chung, những phát hiện này hỗ trợ vai trò bảo vệ tiềm năng của vitamin D liên quan đến nguy cơ IBD và kết quả IBD.

Các mối liên quan đến nguy cơ IBD trong chế độ ăn uống cũng được điều tra trong một tổng quan hệ thống thường được tham khảo bởi Hou và cộng sự, bao gồm 19 nghiên cứu, 2.609 bệnh nhân IBD và 4.000 đối chứng. Đáng chú ý, ăn nhiều chất béo tổng số, PUFAs, axit béo omega-6 và thịt có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc CD. Bên cạnh đó, chất xơ và trái cây tiêu thụ cao có liên quan với giảm nguy cơ của đĩa CD, và tiêu thụ rau cao được liên kết với một giảm nguy cơ UC

Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ uy tín được nhiều bệnh nhân tin cậy trong thực hiện kỹ thuật chẩn đoán các bệnh lý tiêu hóa, bệnh lý gây tiêu chảy mạn tính, bệnh Crohn, viêm ruột...Cùng với đó, tại Bệnh viện Vinmec, sàng lọc ung thư dạ dày, polyp dạ dày được thực hiện thông qua nội soi dạ dày với máy nội soi Olympus CV 190, với chức năng NBI (Narrow Banding Imaging - nội soi với dải tần ánh sáng hẹp) cho kết quả hình ảnh phân tích bệnh lý niêm mạc rõ nét hơn so với nội soi thông thường, phát hiện các tổn thương viêm loét đại tràng, các tổn thương ung thư tiêu hoá giai đoạn sớm... Bệnh viện Vinmec với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, luôn tận tâm tận lực trong khám chữa bệnh, khách hàng có thể yên tâm với dịch vụ nội soi dạ dày, thực quản tại đây.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

  1. Siegel, CA. Refocusing IBD patient management: personalized, proactive, and patient-centered care. Am J Gastroenterol. 2018;113:1440-1443.
  2. Malodecky NA, Soon IS, Rabi DM, Ghali WA, Ferris M, Chernoff, G et al. Increasing incidence and prevalence of the inflammatory bowel diseases with time, based on systematic review. Gastroenterology. 2012;142(1)46-54 e42.
  3. Shivasshankar R, Tremaine WJ, Harmsen WS, Loftus EV Jr. Incidence and prevalence of Crohn’s disease and ulcerative colitis in Olmsted County, Minnesota from 1970 through 2010. Clin Gastroenterol Hepatol. 2017;15(6)857-863.
  4. Joseph D. Frasca, Adam S. Cheifetz, Diet and Inflammatory Bowel Disease: What is the Role? Practical gastroenterology • june 2019
Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

426 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan