Khi nào nên dùng thuốc chống nghén cho bà bầu?

Ốm nghén là tình trạng buồn nôn và nôn xảy ra trong thai kỳ. Hơn một nửa số phụ nữ mang thai bị buồn nôn và nôn, đặc biệt là trong 3 tháng đầu. Vậy khi nào nên dùng thuốc chống nghén cho bà bầu?

1. Triệu chứng ốm nghén

Các triệu chứng chung của ốm nghén bao gồm:

  • Buồn nôn hoặc nôn trong tam cá nguyệt đầu tiên giống như say tàu xe
  • Buồn nôn xảy ra vào buổi sáng nhưng có thể tái phát bất cứ lúc nào hoặc kéo dài cả ngày
  • Cảm thấy buồn nôn khi ngửi một số loại thực phẩm và các mùi khác
  • Buồn nôn sau khi ăn, đặc biệt là thức ăn cay
  • Buồn nôn hoặc nôn do nóng và tiết nhiều nước bọt.

Nguyên nhân chính xác của chứng ốm nghén vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, một số yếu tố gây ra triệu chứng này bao gồm:

Thay đổi nội tiết tố: Mức độ gonadotropin màng đệm của con người (hCG) đã được chứng minh liên quan. Mức hCG đạt đỉnh trong tam cá nguyệt đầu tiên, tương ứng với sự khởi đầu điển hình của các triệu chứng tăng huyết áp. Một số nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa nồng độ hCG cao hơn và chứng nôn nghén. Estrogen cũng được cho là góp phần gây buồn nôn và nôn trong thai kỳ. Khi mức độ estrogen tăng lên, tỷ lệ nôn mửa cũng tăng theo.

Những thay đổi trong hệ thống tiêu hóa: Ai cũng biết rằng cơ vòng thực quản dưới giãn ra khi mang thai do sự gia tăng estrogen và progesterone. Điều này dẫn đến tăng tỷ lệ mắc các triệu chứng trào ngược dạ dày thực quản (GERD) trong thai kỳ và một triệu chứng của GERD là buồn nôn.

Di truyền học: Tăng nguy cơ mắc chứng nghén nặng đã được chứng minh ở những phụ nữ có thành viên trong gia đình cũng từng bị chứng nghén nặng. Hai gen, GDF15 và IGFBP7, có khả năng liên quan đến sự phát triển của chứng nghén nặng.

2. Biến chứng của ốm nghén nặng

Biến chứng ở mẹ

Trong những trường hợp nôn trớ nghiêm trọng, các biến chứng bao gồm thiếu vitamin, mất nước và suy dinh dưỡng nếu không được điều trị thích hợp.

Bệnh não Wernicke do thiếu vitamin B1 có thể dẫn đến tử vong và tàn tật vĩnh viễn nếu không được điều trị.

Ngoài ra, đã có báo cáo trường hợp chấn thương thứ phát do nôn mửa dữ dội và thường xuyên, bao gồm vỡ thực quản và tràn khí màng phổi.

Các bất thường về chất điện giải như hạ kali máu cũng có thể gây ra bệnh tật và tử vong đáng kể. Ngoài ra, những bệnh nhân bị chứng nôn nhiều có thể có tỷ lệ trầm cảm và lo lắng cao hơn khi mang thai.

Biến chứng thai nhi

Các nghiên cứu báo cáo thông tin mâu thuẫn về tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân và sinh non trong bối cảnh buồn nôn và nôn trong thai kỳ. Tuy nhiên, các nghiên cứu không chỉ ra mối liên quan giữa chứng nôn nhiều và tử vong chu sinh hoặc trẻ sơ sinh. Tần suất dị tật bẩm sinh dường như không tăng ở những bệnh nhân bị chứng nôn trớ.

Phụ nữ có triệu chứng ốm nghén nặng cần đến khám bác sĩ sản khoa vì đây là dạng buồn nôn và nôn nghiêm trọng nhất trong thai kỳ. Quản lý bệnh nhân nội trú được chỉ định dùng thuốc chống nôn cho bà bầu và truyền dịch đường tĩnh mạch trong bối cảnh các triệu chứng dai dẳng, điều trị ngoại trú thất bại, mất nước nghiêm trọng hoặc rối loạn điện giải.

3. Điều trị ốm nghén nặng

Buồn nôn và nôn là những yếu tố dự báo tích cực về kết quả thai kỳ thuận lợi, nhưng nôn quá nhiều có thể có tác động tiêu cực đến mẹ và bé, bao gồm cân nặng khi sinh thấp, xuất huyết trước sinh, sinh non và tinh hoàn ở trẻ sơ sinh không xuống được.

Để chữa nghén nặng, những thay đổi đơn giản nhất là ăn nhiều bữa nhỏ hơn, thường xuyên hơn và tránh các loại thực phẩm hoặc mùi gây nôn. Điều trị ban đầu nên bắt đầu bằng các biện pháp can thiệp không dùng thuốc như chuyển các loại vitamin trước khi sinh của bệnh nhân sang chỉ bổ sung axit folic, bổ sung gừng (250 mg uống 4 lần mỗi ngày) khi cần thiết và đeo vòng tay bấm huyệt.

Một thay đổi lối sống khác là giảm căng thẳng và nghỉ ngơi nhiều hơn trong ngày. Thiamine nên được bổ sung ở mức 1,5 mg/ngày ở phụ nữ bị nôn nhiều.

Nếu bệnh nhân tiếp tục gặp các triệu chứng đáng kể, liệu pháp dược lý, các thuốc chống nghén đầu tiên nên bao gồm sự kết hợp của vitamin B6 (pyridoxine) và doxylamine. Ba nhóm liều lượng được ACOG xác nhận, bao gồm:

  • Pyridoxine 10 đến 25 mg uống với 12,5 mg doxylamine 3 hoặc 4 lần mỗi ngày
  • 10 mg pyridoxine và 10 mg doxylamine tối đa 4 lần mỗi ngày
  • 20 mg pyridoxine và 20 mg doxylamine tối đa 2 lần mỗi ngày.

Đây là tất cả các loại thuốc mang thai loại A của FDA.

Thuốc chống nghén hàng thứ hai bao gồm thuốc kháng histamine và thuốc đối kháng dopamin như:

  • Dimenhydrinat 25 đến 50 mg, cứ sau 4 đến 6 giờ uống
  • Diphenhydramine 25 đến 50 mg, cứ sau 4 đến 6 giờ,
  • Prochlorperazine 25 mg nhét trực tràng, cứ sau 12 giờ
  • Promethazine 12,5 đến 25 mg, mỗi lần 4 đến 6 giờ bằng miệng hoặc trực tràng.

Nếu bệnh nhân tiếp tục có các triệu chứng đáng kể mà không có dấu hiệu mất nước, có thể dùng thuốc chống nôn cho bà bầu gồm: Metoclopramide, Ondansetron hoặc Promethazine bằng đường uống.

Trong trường hợp mất nước, nên truyền dịch tĩnh mạch nhanh hoặc truyền liên tục nước muối sinh lý cùng với Metoclopramide, Ondansetron hoặc Promethazine tiêm tĩnh mạch.

Chất điện giải nên được thay thế khi cần thiết.

Các trường hợp khó chữa nghiêm trọng của chứng nôn nghén nặng có thể đáp ứng với:

  • Chlorpromazine tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp 25 đến 50 mg
  • Methylprednisolone 16 mg cứ sau 8 giờ, uống hoặc tiêm tĩnh mạch.

Tóm lại, buồn nôn và nôn là những yếu tố dự báo tích cực về kết quả thai kỳ thuận lợi, nhưng nôn quá nhiều có thể có tác động tiêu cực đến mẹ và bé, bao gồm cân nặng khi sinh thấp, xuất huyết trước sinh, sinh non và tinh hoàn ở trẻ sơ sinh không xuống được. Vì vậy, dùng thuốc chống nghén cho bà bầu là điều cần thiết được chỉ định dưới sự tư vấn của bác sĩ chuyên môn.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

1.8K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan