Đặc điểm hình ảnh học của u mạch máu gan

Bài viết của Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

U mạch máu trong gan thường bị chẩn đoán nhầm với các khối u gan khác. Việc chẩn đoán chính xác u mạch gan là một thách thức về hình ảnh và chủ yếu dựa vào các phát hiện bệnh lý.

1. Tổng quan về chẩn đoán hình ảnh và điều trị u mạch máu gan

Thông thường, u mạch máu gan xuất hiện trên hình ảnh chụp cộng hưởng từ (hoặc chụp cắt lớp vi tính) như một khối u đặc tăng sinh mạch với các vùng mỡ và bị rửa trôi, và có thể dễ dàng bị chẩn đoán nhầm với các khối u gan khác, đặc biệt là ung thư biểu mô tế bào gan. Chiến lược điều trị không được xác định rõ ràng, nhưng phẫu thuật cắt bỏ được chỉ định cho những bệnh nhân có triệu chứng, đối với những khối u có hình thái tích cực (nghĩa là thay đổi kích thước trên hình ảnh hoặc hoạt động tăng sinh cao và mô hình biểu mô không điển hình trên sinh thiết gan), đối với u mạch gan lớn (> 5cm) đã được chứng minh bằng sinh thiết, và nếu vẫn còn nghi ngờ trên hình ảnh hoặc mô học. Quản lý bảo tồn có thể được biện minh trong các tình trạng khác, vì hầu hết các trường hợp đều theo một diễn biến lâm sàng lành tính. Tóm lại, chẩn đoán chính xác u mạch gan là một thách thức về hình ảnh và chủ yếu dựa vào các phát hiện bệnh lý.

2. Khó khăn trong chẩn đoán bản chất u mạch máu gan

Angiomyolipoma (AML) là một khối u trung mô đặc, chủ yếu được mô tả ở thận, và thuộc nhóm u tế bào biểu mô quanh mạch (PEComas). Khu trú tại gan của Angiomyolipoma, được mô tả lần đầu tiên vào năm 1976 là rất hiếm, vì chỉ có khoảng 600 trường hợp được báo cáo sau khi tìm kiếm đầy đủ các tài liệu cho đến năm 2017. Angiomyolipoma gan đặt ra một thách thức chẩn đoán thực sự về phương diện X quang, đặc biệt là khi hàm lượng chất béo thấp, vì loại khối u này có thể xuất hiện như một khối u tăng mạch liên quan đến giai đoạn rửa trôi, bắt chước các khối u gan tăng mạch khác, phổ biến hơn, chẳng hạn như tế bào gan ung thư biểu mô.

U mạch máu đôi khi rất khó chẩn đoán bản chất
U mạch máu đôi khi rất khó chẩn đoán bản chất

3. Các dấu hiệu hình ảnh u mạch máu gan

Các đặc điểm hình ảnh của u mạch máu gan rất khác nhau tùy thuộc vào tỷ lệ biến đổi lớn của mỡ, cơ trơn và các yếu tố mạch máu. Chẩn đoán có thể khó khăn và phụ thuộc chủ yếu vào lượng mỡ hiện có, đây là chìa khóa để chẩn đoán u mạch gan. Trên siêu âm, tổn thương thường được giới hạn rõ, phản âm mạnh hoặc hỗn hợp và sau khi tiêm thuốc cản quang siêu âm, biểu hiện tăng cường nhanh chóng ở pha động mạch so với gan lân cận. Trong giai đoạn cửa và giai đoạn muộn, u mạch gan có thể hiển thị giảm, đẳng hoặc tăng âm. Chụp cắt lớp vi tính (CT) cho thấy một khối u giảm đậm độ với các vùng mỡ bên trong tổn thương (mật độ khoảng -50 HU). Về mặt cổ điển, khối u đặc này là tăng sinh mạch ở giai đoạn muộn [chụp CT hoặc cộng hưởng từ (MRI)]. U mạch gan có ít hoặc không có mạch trên xét nghiệm mô học cho khoảng cửa kéo dài và tăng cường ở giai đoạn cuối, trong khi u mạch gan với mô giàu mạch máu có nhiều khả năng cho thấy ở thì thải thuốc hơn. Tín hiệu khối u trên MRI là tín hiệu cường độ cao trong các trình tự có trọng số T2 và thay đổi trong các trình tự có trọng số T1. MRI là kỹ thuật hình ảnh nhạy cảm nhất để phát hiện mỡ gan bằng cách sử dụng chuỗi echo gradient T1 trong và pha đối nghịch. Tín hiệu thể hiện trong một tổn thương gan trên các chuỗi pha đối xung cho thấy sự hiện diện của chất béo trong tổn thương. Các đặc điểm hình ảnh trên MRI sau khi tiêm chất cản quang tương tự như các đặc điểm quan sát trên CT scan. Khi sử dụng tác nhân đặc hiệu tế bào gan (gadoxetic acid hoặc gadobenate dimeglumine), tổn thương cho thấy giảm tín hiệu trong thì gan gan mật.

Angiomyolipoma ở một phụ nữ 33 tuổi khỏe mạnh: Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng trên pha động mạch cho thấy một khối u đặc tăng mạch khu trú ở đoạn sau bên phải (đầu mũi tên).
Angiomyolipoma ở một phụ nữ 33 tuổi khỏe mạnh: Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng trên pha động mạch cho thấy một khối u đặc tăng mạch khu trú ở đoạn sau bên phải (đầu mũi tên).
Hình  ảnh cộng hưởng từ ở thì T1: Giảm tín hiệu ở vùng ngoại vi của tổn thương do các chất béo dự phòng (đầu mũi tên). A: Trong pha; B: Pha đối nghịch.
Hình ảnh cộng hưởng từ ở thì T1: Giảm tín hiệu ở vùng ngoại vi của tổn thương do các chất béo dự phòng (đầu mũi tên). A: Trong pha; B: Pha đối nghịch.
Hình  ảnh T1  một giờ sau khi tiêm tác nhân đặc hiệu tế bào gan (gadobenate dimeglumine): Giảm âm của tổn thương cho thấy đây không phải là khối u tế bào gan.
Hình ảnh T1 một giờ sau khi tiêm tác nhân đặc hiệu tế bào gan (gadobenate dimeglumine): Giảm âm của tổn thương cho thấy đây không phải là khối u tế bào gan.

4. Dữ liệu về đánh giá u mạch gan sử dụng chụp cắt lớp phát xạ positron

Dữ liệu về đánh giá u mạch gan sử dụng chụp cắt lớp phát xạ positron flo-18-fluorodeoxyglucose ( 18 F-FDG-PET) còn hạn chế. Sự hấp thu FDG trong u mạch gan thay đổi và giá trị của 18 F-FDG-PET để chẩn đoán hoặc theo dõi loại khối u này là không rõ ràng. Với các đặc điểm hình ảnh của u mạch gan (tổn thương tăng sinh mạch với thành phần mỡ trong gan khỏe mạnh và thường xuyên bị rửa trôi), các chẩn đoán phân biệt là u tế bào gan lành tính (u tuyến mỡ hoặc u tuyến, tăng sản nốt mỡ khu trú) và khối u tế bào gan ác tính (chủ yếu là ung thư biểu mô tế bào gan). Khi chẩn đoán còn nhiều khó khăn, đặc biệt với ung thư biểu mô tế bào gan, việc không có nang và hình ảnh tĩnh mạch dẫn lưu là hai đặc điểm X quang hữu ích có thể giúp ích cho chẩn đoán u mạch gan khi chúng có mặt.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

3.5K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan