Xét nghiệm sinh học phân tử trong chẩn đoán ung thư tuỵ

Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Ung thư tuyến tụy là một loại ung thư hình thành tại một số tế bào của tuyến tụy. Hầu hết các bệnh nhân bị ung thư tuyến tụy (khoảng 95%) bắt đầu trong tuyến tụy ngoại tiết. Các khối u cũng có thể hình thành trong tuyến tụy nội tiết, nhưng đây là những trường hợp không phổ biến và thường lành tính (không phải ung thư).

1. Tuyến tụy là gì?

Tuyến tụy là một cơ quan hình lá tạo ra các enzyme tiêu hóa và hormone như insulin. Tuyến tụy nằm ở vị trí bụng cao, gần các động mạch và tĩnh mạch chính. Tuyến tụy có ba phần - đầu, đuôi và thân tụy. Các enzyme tiêu hóa và hormone sản xuất trong tuyến tụy đi từ tuyến tụy đến tá tràng (phần đầu tiên của ruột non) thông qua một ống gọi là ống tụy. Phần của tuyến tụy sản xuất hormone được gọi là tuyến tụy nội tiết, và phần sản xuất enzyme tiêu hóa được gọi là tuyến tụy ngoại tiết.

2. Ung thư tuyến tụy là gì?

Ung thư tuyến tụy là một loại ung thư hình thành tại một số tế bào của tuyến tụy. Hầu hết các bệnh nhân bị ung thư tuyến tụy (khoảng 95%) bắt đầu trong tuyến tụy ngoại tiết. Các khối u cũng có thể hình thành trong tuyến tụy nội tiết, nhưng đây là những trường hợp không phổ biến và thường lành tính (không phải ung thư).

Nội dung dưới đây cung cấp thông tin về bệnh ung thư tuyến tụy ngoại tiết. Hầu hết các bệnh ung thư tuyến tụy bắt đầu trong các tế bào ngoại tiết của tuyến tụy.

Có ba loại ung thư tuyến tụy chính theo bản chất

  • Ung thư biểu mô tuyến: Đây là loại ung thư tuyến tụy phổ biến nhất, chiếm khoảng 80% trường hợp. Hầu như tất cả các bệnh ung thư phát triển trong các tế bào lót ống dẫn của tuyến tụy.
  • Khối u nang là túi chứa đầy chất lỏng hình thành trong tuyến tụy. Hầu hết các u nang tuyến tụy là lành tính, nhưng một số là ung thư.
  • Ung thư tế bào “Acinar”: loại ung thư này phát triển trong các tế bào acinar của tuyến tụy, nằm ở hai đầu của ống dẫn sản xuất ra các enzyme tiêu hóa
Vị trí của tuyến tụy trong ổ bụng
Ung thư tụy và vị trí của tuyến tụy trong ổ bụng

3. Các triệu chứng của ung thư tuyến tụy là gì?

Ở giai đoạn đầu, ung thư tuyến tụy thường không có triệu chứng. Khi ung thư tiến triển, các triệu chứng có thể thay đổi tùy thuộc vào việc khối u nằm ở đầu, thân hay đuôi tụy.

Các khối u ở đầu tụy có xu hướng gây ra nhiều triệu chứng hơn so với những vị trí ở than hoặc đuôi tụy - điều này là do các khối u ở đầu tụy có thể chèn ép vào ống mật hoặc ống tụy và gây ra các tình trạng như vàng da.

Các triệu chứng có thể gặp phải với ung thư tuyến tụy bao gồm:

  • Vàng da và tròng mắt (đối với khối u đầu tụy).
  • Đau bụng.
  • Giảm cân.
  • Phân nhiều mỡ.
  • Các triệu chứng của bệnh tiểu đường mới khởi phát, chẳng hạn như khát nước, đi tiểu thường xuyên và mệt mỏi.

Ở giai đoạn đầu ung thư tuyến tụy thường có một vài triệu chứng. Bạn nên gặp bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nào đề cập ở trên. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là những triệu chứng này cũng có thể được thấy ở những người không bị ung thư tuyến tụy mà có thể được gây ra bởi các bệnh lý khác.

4. Vai trò của hoá mô miễn dịch

Các chất đánh dấu dựa trên mô mang lại lợi ích là cụ thể hơn đối với mô khối u, nhưng với chi phí đòi hỏi các kỹ thuật thu thập xâm lấn hơn. Phân tích hóa mô miễn dịch (IHC) là một quy trình được sử dụng rộng rãi được sử dụng để hình dung các chỉ thị phân tử cụ thể và xác định sự phân bố của chúng trong các mẫu mô lâm sàng. Mặc dù những dấu ấn này có thể hữu ích ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật cắt bỏ, vẫn cần điều tra để xác định xem liệu có giá trị tiên lượng đối với những dấu ấn sinh học này trong mẫu bàn chải hoặc sinh thiết trước phẫu thuật hay không.

Chất vận chuyển nucleoside cân bằng ở người (hENT1)

Có lẽ dấu ấn sinh học dự đoán điều trị được đặc trưng là chất vận chuyển nucleoside cân bằng ở người (hENT1). hENT1, ribonucleotide reductase tiểu đơn vị 1 và 2 (RRM1, RRM2),Trong một phân tích đa biến, biểu hiện cao của RRM2 và ERCC1, chứ không phải các loại khác, có liên quan đến tỷ lệ sống không tái phát (RFS) và tỷ lệ sống chung (OS) kém hơn . Một nghiên cứu khác cho thấy biểu hiện hENT1 thấp có liên quan đến RFS kém và Hệ điều hành. Vì hENT1 đóng một vai trò chính trong quá trình nội hóa Gemcitabine bởi các tế bào ung thư tuyến tụy, nên vai trò chính của hENT1 là như một dấu hiệu dự báo cho hóa trị liệu Gemcitabine, mà hiện có nhiều dữ liệu hơn. Bảng 3 tóm tắt dữ liệu về hENT1 và các chất đánh dấu dựa trên mô khác như là các dấu hiệu tiên lượng về khả năng sống sót trong ung thư biểu mô tuyến tụy .

Protein ​​SPARC

Protein tiết ra có tính axit và giàu cysteine ​​(SPARC) là một glycoprotein tế bào gốc trải qua giai đoạn im lặng biểu sinh trong ung thư biểu mô tuyến tụy, nhưng thường biểu hiện mạnh mẽ ở mặt phân cách giữa khối u và mô đệm bởi nguyên bào sợi mô đệm. Dữ liệu hỗ trợ cho thấy sự tương tác này rất quan trọng đối với sự tiến triển của khối u, sự di căn và độ bền hóa học. Biểu hiện mô đệm SPARC được quan sát thấy trong tất cả các giai đoạn bệnh cho thấy biểu hiện sớm là rất quan trọng đối với sự tiến triển của khối u. Biểu hiện SPARC mô đệm mạnh ở những bệnh nhân ung thư biệt hóa từ khá đến trung bình đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ có liên quan đến việc giảm tỷ lệ sống thêm so với những bệnh nhân không có biểu hiện SPARC.

Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF)

Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) là một chất kích thích mạnh mẽ quá trình hình thành mạch, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và tiến triển của khối u. Trong phân tích IHC, việc nhuộm màu cho VEGF chủ yếu được chứng minh trong tế bào chất và màng tế bào của tế bào ung thư. Tăng biểu hiện VEGF có liên quan đến tiên lượng xấu, bao gồm khả năng sống sót thấp hơn và tăng xâm lấn mạch bạch huyết và di căn hạch bạch huyết. Tương tự như SPARC và hENT1, có những liệu pháp nhắm mục tiêu chống lại VEGF, vì vậy nó cũng có tiềm năng như một dấu hiệu dự đoán.

Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu trong ung thư tụy
Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu trong ung thư tụy

Yếu tố Smad4

Smad4 là một gen ức chế khối u liên quan đến trung gian chuyển đổi yếu tố tăng trưởng beta (TGF-B). Được chứng minh bằng tên thay thế của nó, DPC4 (bị xóa trong ung thư biểu mô tuyến tụy, vị trí 4), mất hoặc bất hoạt Smad4 được thấy ở ∼50% ung thư biểu mô tuyến tụy và dẫn đến tăng sinh tế bào bằng cách điều chỉnh sự tiến triển từ G1-S trong chu kỳ tế bào . Mất biểu hiện Smad4 thường được chứng minh là có liên quan đến giảm khả năng sống sót trong ung thư biểu mô tuyến tụy .

Yếu tố KRAS

KRAS (V-Ki-ras2 Kirsten chuột đồng gen sinh ung thư sarcoma của chuột) là một GTPase kích hoạt các protein cần thiết để truyền các yếu tố tăng trưởng và các thụ thể tín hiệu tế bào khác. Nhìn chung, đột biến KRAS có tương quan với việc giảm tỷ lệ sống sót. Thật thú vị, các kiểu phụ đột biến khác nhau cho thấy thời gian sống sót khác nhau, trong đó loại GGT hoang dã (glycine) được chuyển đổi thành GAT (aspartate) là loại phổ biến nhất và là loại duy nhất được tiên lượng về khả năng sống sót kém. Ngoài ra, phân tích đột biến được thực hiện cho các đột biến KRAS này có thể được thực hiện bằng phản ứng chuỗi polymerase định lượng (PCR), rẻ hơn và nhanh hơn các phương pháp giải trình tự khác và sử dụng ít dữ liệu DNA hơn, giúp dễ dàng thực hiện nhiều phân tích phân tử trên cùng một mẫu .

Có lẽ sự phát triển thú vị nhất của liệu pháp điều trị ung thư trong vài năm gần đây là sự tiến bộ vượt bậc của việc sử dụng liệu pháp miễn dịch. Mặc dù thành công được thấy ở một số khối u ác tính đặc (u ác tính, ung thư phổi, ung thư tiết niệu), tỷ lệ đáp ứng ở ung thư tuyến tụy là rất ít. Tuy nhiên, phản ứng miễn dịch có trong ung thư tuyến tụy và các chiến lược mới nổi để kích hoạt phản ứng miễn dịch này hoặc xác định các khối u có kiểu hình nhạy cảm với miễn dịch đang có nhiều hứa hẹn. Song song với những nỗ lực này, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy đáp ứng miễn dịch tự nhiên trong ung thư tuyến tụy là dự đoán kết quả điều trị. Phân tích hóa mô miễn dịch xác định quần thể tế bào T và tế bào dòng tủy trong ung thư tuyến tụy, hoặc mức độ biểu hiện của các chất điều chỉnh điểm kiểm tra âm tính (NCR) đã chứng minh giá trị tiên lượng. Những dấu hiệu này cũng có thể đóng vai trò là những yếu tố dự báo quan trọng về phản ứng với liệu pháp miễn dịch trong tương lai.

Kết luận

Có vô số dấu hiệu sinh học tiềm năng trong tài liệu, nhưng nhiều dấu hiệu bị hạn chế bởi tính đặc hiệu, tính không đồng nhất của bệnh, khó lấy đủ mẫu và kết quả mâu thuẫn. Ngoài ra, phần lớn các dấu ấn sinh học dựa trên mô đã được nghiên cứu trong các mẫu cắt bỏ, và những bệnh nhân này chỉ chiếm một số ít trong hầu hết các nhóm ung thư biểu mô tuyến tụy. Các dấu ấn sinh học mô hứa hẹn nhất bao gồm hENT1, SPARC, Smad4 và VEGF vì chúng có thể có giá trị trong giai đoạn trước phẫu thuật và cũng có thể có giá trị tiên đoán trong việc hướng dẫn điều trị ung thư tuyến tụy cá thể. Các dấu ấn dựa trên huyết thanh mới cũng có giá trị do cách tiếp cận xâm lấn tối thiểu và là nền tảng để phân tích di truyền.

Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đã và đang triển khai các gói sàng lọc ung thư. Tại Vinmec có đầy đủ các phương tiện chẩn đoán hiện đại như: PET/CT, SPECT/CT, MRI..., xét nghiệm huyết tủy đồ, mô bệnh học, xét nghiệm hóa mô miễn dịch, xét nghiệm gen, xét nghiệm sinh học phân tử, cũng như có đầy đủ các loại thuốc điều trị đích, thuốc điều trị miễn dịch tiên tiến nhất trong điều trị ung thư. Điều trị ung thư đa mô thức từ phẫu thuật, xạ trị, hoá trị, ghép tế bào gốc tạo máu, liệu pháp nhắm trúng đích, liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư, các điều trị mới như liệu pháp miễn dịch tự thân, nhiệt trị...

Nhờ có cơ sở vật chất hiện đại, đội ngũ y bác sĩ giàu chuyên môn, dịch vụ y tế hoàn hảo đã đem lại niềm tin, sức khỏe và chất lượng cuộc sống tốt cho bệnh nhân đến thăm khám và điều trị bệnh tại Vinmec.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

  1. Yadav D, Lowenfels AB. The epidemiology of pancreatitis and pancreatic cancer. Gastroenterology. 2013;144(6):1252- 1261.
  2. Kilic M, Gocmen E, Tez M, Ertan T, Keskek M, Koc M. Value of preoperative serum CA 19-9 levels in predicting resectability for pancreatic cancer. Can J Surg. 2006;49(4):241-244.
Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

1.6K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan

Xin mời bạn chọn tỉnh thành: