Nguyên nhân và cách chẩn đoán áp xe phổi

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Hồng Phúc - Khoa Hồi sức cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc. Bác sĩ đã có nhiều năm kinh nghiệm trong điều trị nội hô hấp.

Áp xe phổi là bệnh nhiễm trùng phổi do vi khuẩn xâm nhập vào theo đường phế quản, theo đường máu. Khi xuất hiện các dấu hiệu của áp xe phổi, người bệnh nên đến ngay bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

1. Áp xe phổi là gì?

Áp xe phổi là bệnh nhiễm trùng phổi. Bệnh do viêm nhiễm hoại tử cấp tính gây ra ổ mủ, sưng mủ, hoại tử mô phổ trong nhu mô phổi và hình thành của các khoang, ổ chứa các mảnh vụn hoại tử. Áp xe phổi có thể tạo ra một hoặc nhiều ổ, hang chứa mủ có kích thước trên 2cm. Khi điều trị nội khoa quá 6 tuần thất bại thì gọi là áp xe phổi mạn tính. Sự hình thành của nhiều áp xe có thể dẫn đến viêm phổi hoặc hoại tử phổi.

Có 2 loại áp xe: Áp xe phổi nguyên phát và áp xe phổi thứ phát.

  • Áp xe phổi nguyên phát: xảy ra ở trẻ mạnh khoẻ - phổi bình thường trước đây. Nguyên nhân gây ra áp xe phổi là do vi khuẩn phế cầu, tụ cầu vàng, liên cầu. Vi khuẩn xâm nhập vào theo đường phế quản, theo đường máu, do viêm phổi hay xâm nhập qua cơ hoành. Trẻ em dễ bị áp xe phổi trong trường hợp bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải (HIV/AIDS), trong đó còn có thể do thuốc ức chế miễn dịch, điều trị ung thư; dị tật lồng ngực, dị tật phổi bẩm sinh, trẻ dễ bị hít sặc vào phổi, nhất là khi có vệ sinh răng miệng kém: bại não, bệnh thần kinh - cơ; sau gây mê, đặt nội khí quản, thở máy; rối loạn nuốt; bất thường hoạt động thực quản; chấn thương lồng ngực, dị vật đường thở bỏ quên.
  • Áp-xe phổi thứ phát: xảy ra ở trẻ có bất thường phổi bẩm sinh hoặc mắc phải (như sau viêm phổi, viêm phổi hít, biến chứng sau phẫu thuật...).

Áp xe phổi nếu không được điều trị kịp thời sẽ xuất hiện các biến chứng nguy hiểm. Nhiều người bệnh bị suy kiệt và có thể gây tử vong. Các biến chứng có thể xảy ra như: viêm mủ màng phổi, viêm mủ màng tim do vỡ ổ áp xe lây lan; áp-xe não, viêm màng não; giãn phế quản quanh ổ áp-xe; ho máu nặng (gọi là ho máu sét đánh); nấm phổ.

Áp xe phổi là gì?
Áp xe phổi có thể tạo ra một hoặc nhiều ổ, hang chứa mủ có kích thước trên 2cm

2. Nguyên nhân áp xe phổi


Hít phải dị vật, vi khuẩn, ổ nhồi máu phổi, ung thư nguyên phát bội nhiễm là các nguyên nhân hình thành áp xe phổi.

  • Hít phải dị vật: Các dị vật thường hít phải là thức ăn, thức uống, chất nôn ra hoặc chất bài tiết từ miệng được hít vào phổi. Khi hít phải các dị vật dẫn đến sưng, viêm phổi, chỉ sau 7 - 14 ngày áp xe có thể hình thành. Đột quỵ, động kinh, lạm dụng thuốc, nghiện rượu, các bệnh về răng miệng, khí thũng, ung thư phổi và rối loạn thực quản có thể dẫn đến tình trạng hít phải dị vật.
  • Vi khuẩn: Vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng là nguyên nhân chủ yếu gây ra áp xe phổi. Vi khuẩn loại này thường kỵ khí (không cần oxy để phát triển) và bắt nguồn từ miệng. Các vi sinh vật khác như động vật kí sinh và nấm cũng có thể làm phổi bị nhiễm trùng và gây ra áp xe.

Các loại vi khuẩn gây mủ ở phổi như: tụ cầu vàng, klebsiella, liên cầu khuẩn nhóm A, Bacteroides sp, Actinomyces, trực khuẩn mủ xanh, E. Coli, Proteus, Fusobacterium và những cầu khuẩn kỵ khí khác.

Các loại nấm như: Aspergilus, Candida Abicans, Mucor. Ký sinh vật: amip, sán lá phổi.

Bệnh nhân mắc các bệnh mạch, viêm mạch máu (viêm nút quanh động mạch, bệnh u hạt) dẫn đến ổ nhồi máu phổi cũng hình thành ổ nhồi máu phổi.

Ngoài ra, áp xe phổi sẽ tăng nguy cơ được hình thành do:

  • Kén hơi bội nhiễm
  • Hoại tử trong bệnh bụi phổi
  • Chấn thương lồng ngực có mảnh đạn
  • Sau gây mê, đặt nội khí quản, thở máy
  • Sau phẫu thuật vùng tai mũi họng, răng hàm mặt
  • Lưu đường truyền tĩnh mạch trung tâm lâu ngày
  • Mắc các bệnh nội khoa khác: Đái tháo đường, các bệnh phổi mạn tính, giãn phế quản
  • Nghiện rượu, tiêm chích ma túy, nghiện thuốc lá.
Nghiện rượu
Nghiện rượu làm tăng nguy cơ áp xe phổi

3. Các phương pháp chẩn đoán áp xe phổi

3.1 Chẩn đoán xác định

Giai đoạn nung mủ kín thường khó khăn vì triệu chứng nghèo nàn, không điển hình. Do vậy, trước khi tiến hành điều trị, bác sĩ sẽ sử dụng phương pháp chẩn đoán xác định như:

  • Một số bệnh nhân bị sốt từ 38 độ C - 39 độ C hoặc cao hơn, có thể kèm rét run hoặc không. Cơ thể mệt mỏi, tâm trạng thay đổi nhiều.
  • Với những bệnh nhân áp xe phổi thùy dưới xuất hiện tình trạng đau ngực bên tổn thương.
  • Bệnh nhân ho khạc đờm có mủ nhiều (ộc mủ), đờm mùi hôi hoặc thối, đôi khi có thể ho ra máu lẫn mủ, có khi ho khan;
  • Tình trạng khó thở, nhịp thở nhanh, suy hô hấp như thở nhanh, tím môi, đầu chi, PaO2 giảm;
  • Khám phổi: Có thể thấy ran ngáy, ran ẩm, có khi thấy hội chứng hang, hội chứng đông đặc;
  • Công thức máu: Nếu do vi khuẩn, có thể có bạch cầu tăng, công thức bạch cầu chuyển trái. Tốc độ máu lắng tăng;
  • X-quang phổi: Thấy hình hang thường có thành tương đối đều, hình mức nước-hơi. Có thể chỉ có 1 ổ áp xe, hay nhiều ổ. Cần chụp phim nghiêng (có khi phải chụp cắt lớp vi tính) để xác định chính xác vị trí ổ áp xe giúp chọn phương pháp dẫn lưu mủ phù hợp.
  • Cần lấy máu, đờm hoặc dịch hút từ phế quản để nhuộm soi, nuôi cấy vi khuẩn. Căn cứ vào kết quả của kháng sinh đồ để sử dụng kháng sinh cho phù hợp.

3.2 Chẩn đoán phân biệt

Trong trường hợp, bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng nuốt nghẹn, nói khàn, móng tay khum, ngón dùi trống, phù áo khoác... Có thể là dấu hiệu của bệnh người thư phổi áp xe hóa. Bác sĩ sẽ chỉ định chụp phim X-quang phổi thấy thành hang dày, thường lệch tâm, xung quanh có các tua gai, trong lòng lồi lõm mấp mô, ít khi có mức nước ngang. Đối tượng mắc ung thư phổi áp xe hóa thường > 45 tuổi, có tiền sử nghiện thuốc lá, thuốc lào.

Kén khí phổi bội nhiễm: Biểu hiện lâm sàng giống áp xe phổi, X-quang phổi thấy hình hang thành mỏng < 1mm, có mức khí dịch và sau khi điều trị thì kén khí vẫn còn tồn tại.

Khi bệnh nhân có dấu hiệu ho, khạc đờm hoặc có khi ho ra máu kéo dài nhiều năm, nghe phổi có ran ẩm, ran nổ tồn tại lâu và được chỉ định chụp X-quang.

Chụp phim X-quang phổi - áp xe phổi
Phim X-quang trên bệnh nhân áp xe phổi

Chụp X-quang phổi ra hình ảnh nhiều ổ sáng xen kẽ vùng mờ không đều, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực lớp mỏng 1mm độ phân giải cao hoặc chụp phế quản cản quang giúp chẩn đoán xác định là dấu hiệu của bệnh giãn phế quản hình túi cục bộ.

Một số bệnh nhân toàn trạng gầy sút suy sụp, sốt về chiều, ho khạc đờm, hoặc máu là dấu hiệu lâm sàng của lao phổi có hang. Khi X-quang phổi thấy trên nền tổn thương thâm nhiễm hoặc xơ hoá có một hoặc nhiều hang, khu trú thường ở đỉnh phổi. Phản ứng tuberculin trong nhiều trường hợp dương tính mạnh, máu lắng tăng.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

4.4K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan