Vắc-xin IPV là vắc-xin gì?

Vắc-xin IPV là vắc-xin bất hoạt đầu tiên phòng chống bệnh bại liệt được phát triển bởi nhà khoa học Albert Salk. IPV được sản xuất từ các chủng virus bại liệt hoang dại của từng loại huyết thanh đã được bất hoạt với formalin. Đây là loại vắc-xin tiêm có thể sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với một số vắc-xin khác như: bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan B

1. Tổng quan về bệnh bại liệt

Bệnh bại liệt là một bệnh truyền nhiễm rất cao do poliovirus tấn công hệ thần kinh. Trẻ em dưới 5 tuổi có khả năng nhiễm virus này cao hơn bất kỳ nhóm nào khác. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 1 trong 200 ca nhiễm bệnh bại liệt sẽ dẫn đến tê liệt vĩnh viễn.

Ước tính có đến 95-99% những người mắc bệnh bại liệt không có triệu chứng (bại liệt cận lâm sàng). Ngay cả khi không có triệu chứng, những người nhiễm virus vẫn có thể lây lan và gây nhiễm trùng cho người khác. Bệnh thường lây truyền bằng đường phân - miệng.

Cách tốt nhất để phòng ngừa bệnh bại liệt là tiêm vắc-xin bại liệt. Trẻ em nên được tiêm phòng bại liệt theo lịch tiêm chủng do Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) khuyến cáo.

Bại liệt
Trẻ mắc bệnh bại liệt

2. Vắc-xin IPV

Vắc-xin bại liệt là vắc-xin được sử dụng để ngăn ngừa bệnh bại liệt. Có hai loại vắc-xin được sử dụng đó là: vắc-xin bất hoạt (Inactivated poliovirus-IPV) được sử dụng bằng đường tiêm và vắc-xin bại liệt sống (Oral poliovirus-OPV) được sử dụng bằng đường uống. Cả hai loại vắc-xin này đều đã loại trừ bệnh bại liệt hầu hết trên toàn thế giới.

Vắc-xin IPV là vắc-xin đầu tiên được sản xuất bởi nhà khoa học Albert Salk bằng cách sử dụng virus phát triển trên tế bào thận khỉ và bất hoạt với dung dịch formaldehyde. Năm 1954, vắc-xin IPV được thử nghiệm trong một thử nghiệm kiểm soát giả dược với sự thu nhận của 1,6 triệu trẻ em ở Canada, Phần Lan và Hoa Kỳ. Vào tháng 4 năm 1955 vắc-xin của Salk đã được chấp nhận sử dụng trên khắp Hoa Kỳ. Từ đó, tỷ lệ mắc bệnh bại liệt ở Hoa Kỳ đã giảm từ 13,9/100 000 trường hợp vào năm 1954 xuống còn 0,8/100 000 trường hợp vào năm 1961.

Tuy nhiên, vắc-xin IPV ở thời điểm đó có một số nhược điểm đó là giảm độ chuẩn của kháng thể lưu hành trong một vài năm tiêm chủng; sự lưu hành của poliovirus hoang dã; cần một số lượng lớn khỉ để sản xuất liều vắc-xin bất hoạt. Các chủng được sử dụng trong vắc-xin là Mahoney (loại 1), MEF-I (loại 2) và Sau Kett (loại 3). Ngay sau khi được cấp phép vắc-xin, Salk gặp thất bại trong việc vô hiệu hóa virus vắc-xin tại phòng thí nghiệm Cutter Berkeley. Đã có 260 trường hợp mắc bệnh bại liệt với poliovirus loại 1 và 10 trường hợp tử vong.

Jonas Salk: Cha đẻ của vaccine bại liệt
Jonas Salk: Cha đẻ của vắc-xin bại liệt

Để khắc phục thất bại này, năm 1980 nồng độ và tinh chế kháng nguyên bại liệt được đưa vào sản xuất vắc-xin IPV và khả năng miễn dịch của vắc-xin được tăng lên. IPV ban đầu chứa các đơn vị kháng nguyên 20, 2 và 4D của poliovirus loại 1, 2, 3. Bằng việc sử dụng kỹ thuật nuôi cấy mới với các tế bào trên hạt microcarrier trong huyền phù ở bể thép không gỉ lớn, một IPV mạnh hơn chứa các đơn vị kháng nguyên 40, 8 và 32D loại 1,2,3 đã được sản xuất.

Các thử nghiệm cho vắc-xin IPV này cho thấy mức độ ổn định huyết thanh cao hơn 90% so với cả 3 loại poliovirus sau một liều tiêm và 100% sau hai liều tiêm. Để loại bỏ nguy cơ tê liệt trong số những người nhận vắc-xin đường uống OPV, lịch tiêm chủng tuần tự IPV/OPV đã được sử dụng trên thế giới.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Nguồn tham khảo: healthline.com; who.int

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

100.5K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan