Cấy ghép hệ vi khuẩn đường ruột (FMT) đã nổi lên như một biện pháp can thiệp hiệu quả đối với nhiễm trùng Clostridium difficile và hứa hẹn là phương thức điều trị cho hội chứng ruột kích thích (IBS).
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Việc sử dụng cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột trong điều trị IBS đã được xem xét kỹ lưỡng trong nhiều thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên, mang lại kết quả khác nhau. Việc sử dụng cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột trong điều trị IBS đã được giám sát chặt chẽ trong nhiều thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên (nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng), mang lại kết quả khác nhau.
Các yếu tố ảnh hưởng của cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột đối với hội chứng ruột kích thích
Lựa chọn người cho phân
Sự thay đổi đáng kể trong kết quả của cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột đối với hội chứng ruột kích thích IBS đã được ghi nhận trong các nghiên cứu, một hiện tượng chủ yếu được quy cho sự khác biệt trong việc lựa chọn người hiến tặng phân, tức người cho phân. Tên gọi "siêu hiến tặng" được trao cho người hiến tặng gây ra phản ứng mạnh mẽ với cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột. Những nỗ lực dự đoán những người hiến tặng siêu hiến tặng phân liên quan đến việc gom phân từ nhiều người hiến tặng để tăng cơ hội cho bệnh nhân nhận được phân của người hiến tặng siêu hiến tặng.
Tuy nhiên, chiến lược này đã không thành công, có thể là do phân của người hiến tặng siêu hiến tặng bị pha loãng và sau đó liều lượng không đủ cho người nhận. Kết quả khác nhau trong nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng của cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột trong IBS chủ yếu có thể bắt nguồn từ sự thay đổi trong tiêu chí lựa chọn người hiến tặng. Đáng chú ý là nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng do El-Salhy và cộng sự thực hiện, trong đó chứng minh phản ứng cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột tích cực, đã thiết lập việc lựa chọn người hiến tặng siêu hiến tặng nghiêm ngặt. Nhưng một số nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng đã bỏ qua các tiêu chí này để lựa chọn người hiến tặng. Sự ổn định tạm thời của thành phần vi khuẩn đường ruột của người hiến tặng là một cân nhắc quan trọng khác khi lựa chọn người hiến tặng siêu hiến tặng.
Tiêu chuẩn lâm sàng để lựa chọn người hiến tặng siêu cấp đã được dựa trên các yếu tố được biết là tác động đến hệ vi khuẩn đường ruột, bao gồm tuổi tác (> 50 tuổi), thói quen hút thuốc, sinh mổ, nuôi con bằng sữa công thức trong thời kỳ sơ sinh, sử dụng kháng sinh, sử dụng thuốc không phải kháng sinh và các yếu tố lối sống như tập thể dục thường xuyên và chế độ ăn uống. Các cân nhắc về di truyền cũng nhấn mạnh nhu cầu người hiến tặng siêu cấp không phải là họ hàng cấp độ một của người nhận. Người hiến tặng siêu cấp được xác định trong nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng của El-Salhy và cộng sự tuân thủ hồ sơ của một nam thanh niên khỏe mạnh với chỉ số khối cơ thể bình thường, sinh thường, bú mẹ, không hút thuốc, không dùng thuốc, ít sử dụng kháng sinh, tập thể dục thường xuyên và chế độ ăn uống lành mạnh.
Phân tích hệ vi khuẩn đường ruột của người hiến tặng này cho thấy sự đa dạng vi khuẩn cao, với sự sai lệch trong thành phần vi khuẩn so với chuẩn mực của 165 đối tượng khỏe mạnh, chủ yếu ở ngành Firmicutes. Điều này bao gồm sự gia tăng số lượng vi khuẩn có lợi bao gồm Lactobacillus, Streptococcus và Ruminococcaceae spp. Điều quan trọng là thành phần của hệ vi sinh vật đường ruột từ người hiến tặng siêu cấp có thể duy trì ổn định trong hơn 18 tháng. Bất chấp những nỗ lực đảm bảo sự hiện diện của người hiến tặng siêu cấp bằng cách gom phân từ nhiều người hiến tặng, chiến lược này không mang lại phản ứng hoặc chỉ cải thiện tạm thời.

Bao gồm các bệnh nhân mắc hội chứng IBS
Cần thận trọng khi khái quát hóa kết quả của nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng về cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột đối với hội chứng ruột kích thích IBS, vì các nhóm bệnh nhân được đưa vào các thử nghiệm này đại diện cho các phân nhóm cụ thể của quần thể IBS. Đáng chú ý, năm nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng chỉ ghi danh những bệnh nhân mắc IBS tiêu chảy chiếm ưu thế (IBS-D), IBS hỗn hợp tiêu chảy và táo bón (IBS-M) hoặc IBS không phân loại (IBS-U). Ngược lại, ba nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng khác bao gồm tất cả các phân nhóm IBS, bao gồm IBS-D, IBS táo bón chiếm ưu thế (IBS-C), IBS-M và IBS-U. Ngoài ra, nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng do El-Salhy và cộng sự thực hiện phát hiện ra rằng những bệnh nhân sống chung với bệnh nhân IBS trong hai ngày có thể biểu hiện các triệu chứng IBS từ trung bình đến nặng, ngay cả khi họ tuân thủ hoàn toàn chế độ ăn kiêng của Viện Sức khỏe và Chăm sóc Quốc gia Excellenc.
Nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng do Holster và cộng sự thực hiện cụ thể bao gồm những bệnh nhân có đặc điểm là mức độ vi khuẩn sản xuất butyrate trong phân thấp. Hơn nữa, Holvoet và cộng sự chỉ tuyển dụng những bệnh nhân IBS khó chữa bị đầy hơi nghiêm trọng, những người không hiệu quả với các liệu pháp thông thường trong ít nhất 3 ngày. Những thay đổi trong tiêu chí lựa chọn bệnh nhân này nhấn mạnh nhu cầu giải thích và áp dụng thận trọng các kết quả của thử nghiệm cấy ghép hệ vi sinh vật đường ruột cho phổ rộng hơn của những cá nhân bị IBS.
Tài liệu tham khảo
1. Zhang F, Luo W, Shi Y, Fan Z, Ji G. Should we standardize the 1,700-year-old fecal microbiota transplantation? Am J Gastroenterol. 2012;107:1755; author reply p.1755-1755
2. Liubakka A, Vaughn BP. Clostridium difficile Infection and Fecal Microbiota Transplant. AACN Adv Crit Care. 2016;27:324-337.
3. Dai C, Huang YH, Jiang M. Fecal microbiota transplantation for irritable bowel syndrome: Current evidence and perspectives. World J Gastroenterol 2024; 30(16): 2179-2183