Cập nhật quan điểm hiện tại về viêm gan D

Mục lục

Viêm gan D (HDV), hay virus viêm gan delta, là loại virus nhỏ nhất có thể gây bệnh ở người. HDV được phát hiện vào năm 1977 và là nguyên nhân gây tử vong đáng kể trên toàn thế giới; đây là dạng viêm gan mãn tính nghiêm trọng nhất, với sự phát triển nhanh chóng của xơ gan, suy gan và HCC. 

Bài viết được viết bởi ThS.BS Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa, Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Nhiễm trùng HDV ở người đòi hỏi phải thiết lập viêm gan B, với sự sao chép và lan truyền nhiễm trùng dựa trên HBsAg và bộ máy tế bào vật chủ. Viêm gan D thường được phát hiện như một bệnh nhiễm trùng mãn tính ở cả nhóm phụ nữ mang thai và không mang thai. Đặc điểm lâm sàng đặc trưng của viêm gan D mãn tính (CHD) ở các quốc gia lưu hành, được quan sát thấy ở Châu Âu vào những năm 1980, là tiến triển nhanh thành xơ gan và HCC

So với nhiễm viêm gan D HBV mạn tính, HDV làm tăng tốc độ xơ gan, tăng nguy cơ HCC và tăng tốc độ mất bù gan

Nhiễm đồng thời cả HBV và HDV thường dẫn đến mức độ nghiêm trọng của bệnh tăng lên so với nhiễm HBV đơn lẻ, với khả năng xơ gan, suy gan và HCC cao hơn. Ngoài ra, có các diễn biến lâm sàng riêng biệt đối với nhiễm đồng thời và bội nhiễm viêm gan D; trường hợp sau có nhiều khả năng dẫn đến nhiễm trùng mạn tính hơn. Mặt khác, nhiễm HDV được phát hiện làm tăng nguy cơ mất bù gan và nguy cơ HCC ở những bệnh nhân đồng nhiễm HIV và HBV. HDV rất phổ biến, lây nhiễm cho khoảng 12-72 triệu người trên toàn thế giới. Ngoài ra, nhiễm trùng HDV mãn tính ảnh hưởng đến khoảng 12 triệu người trên toàn thế giới. Tuy nhiên, chỉ có dữ liệu hạn chế về tỷ lệ lưu hành, các yếu tố quyết định và kết quả của nhiễm trùng HDV đối với những người đồng nhiễm HIV và HBV.

Khuyến cáo từ Quỹ Bệnh gan mạn tính là tất cả bệnh nhân có HBsAg dương tính nên được sàng lọc HDC

Các sàng lọc ban đầu nên sử dụng xét nghiệm để phát hiện kháng thể được tạo ra chống lại HDV và những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính với immunoglobulin G Ab kháng HDV sau đó nên tiến hành xét nghiệm định lượng RNA HDV. Hiện tại, tiêu chuẩn vàng để phân loại loại viêm gan siêu vi D mãn tiến triển nhanh và đặc biệt nghiêm trọng này vẫn là sinh thiết gan. 

Mặt khác, vẫn còn nhu cầu chưa được đáp ứng về việc theo dõi nhiễm trùng viêm gan siêu vi D mãn lâm sàng để kiểm soát bệnh tiến triển, do đó, vẫn đang có cuộc điều tra đang diễn ra về tính hữu ích của các dấu hiệu xơ hóa không xâm lấn trong viêm gan D. Mặc dù có những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực này, các phương án điều trị hiện đang được chấp thuận vẫn còn rất hạn chế, xét về cả tính khả dụng và hiệu quả; một số bệnh nhân không đáp ứng với các liệu pháp hiện có này và trong hầu hết các trường hợp, các loại thuốc hiện có không thể chữa khỏi viêm gan siêu vi D mãn.  Do đó, việc quản lý viêm gan siêu vi D đặt ra một thách thức cho các bác sĩ, bên cạnh nhu cầu cấp thiết về phát triển thuốc mới.

Cập nhật quan điểm hiện tại về viêm gan D

HDV vẫn có xu hướng bị chẩn đoán thiếu, chưa có phương pháp quản lý chuẩn nào được phát triển cho đến nay

Mặc dù các phương pháp điều trị thay thế đã được phát triển, peg-IFNα có vẻ như sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý viêm gan D, dù là đơn lẻ hay kết hợp. Peg-IFNα đã có mặt trong 30 năm nay và được khuyến nghịđược sửa chữa theo hướng dẫn, mặc dù không được chấp thuận, với hiệu quả thấp và khả năng dung nạp kém; kết quả là phản ứng vi-rút kéo dài ở không quá 25% bệnh nhân. Trong số các chiến lược điều trị mới hiện đang được đánh giá lâm sàng, thuốc ức chế xâm nhập bulevirtide (BLV) là thuốc duy nhất cho đến nay đã nhận được sự chấp thuận có điều kiện của Cơ quan Dược phẩm Châu Âu. 

Sự chấp thuận đã được cấp vào tháng 7 năm 2020, với liều 2 mg mỗi ngày để điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc bệnh CHD còn bù. BLV đã được sử dụng thành công như một liệu pháp đơn trị dài hạn để điều trị cho bệnh nhân xơ gan còn bù tiến triển. Cho đến khi các loại thuốc kháng HBV và kháng HDV mới cuối cùng có sẵn cho các nghiên cứu kết hợp, thì phương pháp điều trị BLV vẫn là lựa chọn điều trị kháng HDV duy nhất có thể cải thiện tiên lượng dài hạn ở những bệnh nhân Viêm gan siêu vi D mãn khó kiểm soát

Suy gan, HCC và các biến chứng khác có thể ảnh hưởng đến sự sống còn của bệnh nhân HBV và nhiễm HDV đồng thời dẫn đến các đợt bệnh nặng hơn

Gánh nặng bệnh viêm gan D xuất hiện khoảng 10-20 năm sau khi nhiễm trùng. Dạng viêm gan siêu vi nghiêm trọng nhất là CHD, đặc trưng bởi gây ra nguy cơ gia tăng lớn nhất đối với xơ gan và HCC. Cho đến nay, chỉ có dữ liệu hạn chế về dịch tễ học, tiền sử tự nhiên và phương pháp điều trị của HDV cho bệnh nhân đồng nhiễm HIV và HBV. Vẫn cần nghiên cứu thêm để lấp đầy những khoảng trống kiến thức, nhằm cải thiện việc quản lý đồng nhiễm HDV trong các trường hợp đồng nhiễm HIV/HBV.

Tài liệu tham khảo 

1.    Cooke GS, . Accelerating the elimination of viral hepatitis: a Lancet Gastroenterology & Hepatology Commission. Lancet Gastroenterol Hepatol. 2019;4:135-184

2.      Sinn DH, Cho EJ, Kim JH, Kim DY, Kim YJ, Choi MS. Current status and strategies for viral hepatitis control in Korea. Clin Mol Hepatol. 2017;23:189-195

3.    Usuda D, et allCurrent perspectives of viral hepatitis. World J Gastroenterol 2024; 30(18): 2402

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ