Hiệu quả và an toàn của thuốc chống xơ gan do viêm gan virus

Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Sự hình thành xơ hóa gan và tiến triển thành xơ gan là một cơ chế phức tạp có tác động qua lại giữa sự hình thành chất nền xơ và sự suy thoái của nó. Hiện nay, các nghiên cứu về hiệu quả và an toàn của thuốc chống xơ gan do viêm gan virus đã đạt những thành tựu nhất định.

1. Bệnh gan do virus viêm gan B

Viêm gan B mãn tính (CHB) được định nghĩa là sự tồn tại của kháng nguyên Australia trong hơn 6 tháng) là nguyên nhân chính gây ra sự phát triển trên toàn thế giới của bệnh xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan. Trong 3 thập kỷ qua, nhiễm virus viêm gan B (HBV) ở Hoa Kỳ đã giảm 82%, mặc dù khả năng virus tiến triển thành nhiễm trùng mãn tính và sau đó là xơ gan tiếp tục có những ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe lâu dài. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thông qua sự ức chế axit deoxyribonucleic của virus, y học hiện đại có thể đạt được phản ứng mô học.

Xơ hóa gan
Xơ gan xảy ra do sự mất cân bằng tạo sợi và tiêu sợi trong gan

Liệu pháp Pegylated Interferon alpha-2b ở bệnh nhân CHB có HBeAg dương tính đã được chứng minh là cải thiện tình trạng xơ hóa (được định nghĩa là giảm ít nhất một điểm bằng cách sử dụng hệ thống tính điểm Ishak) và cải thiện điểm viêm hoại tử (được định nghĩa là giảm ít nhất 2 điểm) trong 22% và 53% bệnh nhân được thử nghiệm tương ứng sau 52 tuần điều trị.

Những cải thiện này thường gặp hơn ở những người đáp ứng, được định nghĩa là sự chuyển đổi huyết thanh của kháng nguyên HBeAg thành HBeAg không được phát hiện, khi hoàn thành liệu pháp so với những người không đáp ứng. Một trong những loại thuốc kháng virus đường uống đầu tiên, lamivudine, là một chất tương tự nucleoside cũng đã được chứng minh là cải thiện tình trạng xơ hóa trong nhiều nghiên cứu thông qua tác dụng kháng virus của nó.

Trong một nghiên cứu kéo dài 3 năm, lamivudine dẫn đến cải thiện xơ hóa gan cầu nối phân loại mô học và xơ gan ở 63% và 73% bệnh nhân mắc bệnh YMDD [tyrosine (Y), methionine (M), aspartate (D) và aspartate (D) amino axit] Các biến thể HBV tương ứng. Một nghiên cứu tương tự cho thấy sự cải thiện ở cả xơ hóa cầu nối và xơ gan ở cả bệnh nhân YMDD và không YMDD HBeAg dương tính như nhau. Điều trị viêm gan B dài hạn với lamivudine (10 năm) có liên quan đến việc thoái hóa gan hoàn toàn/xơ gan hoặc cải thiện điểm xơ hóa Ishak ở 21% và 47% bệnh nhân được thử nghiệm, đặc biệt do mất HBeAg và chuyển đổi huyết thanh cùng với thời gian điều trị kéo dài cho phép tái tạo và mô học cải tiến.

1.1 Vai trò của Adefovir trong việc chống xơ hoá gan

Adefovir là một chất ức chế men sao chép ngược (chất tương tự nucleotide). Mặc dù không phải là một loại thuốc chống xơ hóa trực tiếp, nó hoạt động như một tác nhân kháng virus có thể làm giảm tình trạng viêm gan đang diễn ra, có ý nghĩa lâm sàng trong việc ngăn ngừa xơ hóa, tương tự như các chất tương tự nucleos (t) Ide khác. Trong một nghiên cứu được thực hiện bởi Hadziyannis và cộng sự, điểm số xơ hóa Ishak được cải thiện ở 71% bệnh nhân được điều trị bằng Adefovir dipivoxil trong 240 tuần. Những cải thiện mô học tương tự cũng được thấy trong một nghiên cứu tiếp theo, trong đó 60% người tham gia nghiên cứu cho thấy điểm xơ hóa được cải thiện khi sinh thiết theo dõi.

1.2 Vai trò của thuốc Entecavir

Entecavir (một chất tương tự nucleoside) cũng cho thấy những lợi ích tương tự như một tác nhân kháng virus, với một nghiên cứu cho thấy cải thiện mô học (giảm điểm số viêm hoại tử Knodell và không làm xấu đi điểm số xơ hóa Knodell) ở 96% bệnh nhân và cải thiện điểm số xơ hóa Ishak ở 88% bệnh nhân, bao gồm tất cả 10 bệnh nhân đã bị xơ hóa hoặc xơ gan tiến triển trước khi bắt đầu điều trị.

thuốc
Entecavir (một chất tương tự nucleoside)cho thấy những lợi ích tương tự như một tác nhân kháng virus

Trong một nghiên cứu lớn, đa trung tâm, giai đoạn 2 ( n = 1633) đánh giá kết quả từ ba nghiên cứu lớn ở giai đoạn 3; entecavir được phát hiện là vượt trội hơn lamivudine, dẫn đến cải thiện điểm số xơ hóa Ishak ở những bệnh nhân chưa từng biết đến nucleos (t) Ide đã HBeAg dương tính (57%), HBeAg âm tính (59%) hoặc lamivudine-kháng thuốc HBeAg dương tính (43 %).

Những phát hiện tương tự cũng được tìm thấy trong một nghiên cứu của Nhật Bản do Yokosuka và cộng sự thực hiện, trong đó 57% bệnh nhân chưa từng sử dụng nucleoside được điều trị bằng entecavir trong 3 năm cho thấy sự cải thiện xơ hóa. 1 nghiên cứu tiền cứu gần đây hơn phân tích 120 bệnh nhân CHB chưa từng được điều trị, đã chứng minh cả sự thoái triển xơ hóa ở 54 bệnh nhân (45%) và giảm độ cứng của gan [chụp đàn hồi thoáng qua (TE)] ở những bệnh nhân thoái hóa xơ hóa so với những người không cải thiện tình trạng xơ hóa sau 78 tuần của điều trị entecavir (-46,4% so với -28,6%, P <0,001) .

1.3 Vai trò của thuốc Tenofovir

Tenofovir là một chất tương tự nucleotide thường được sử dụng, là phương pháp điều trị kháng vi-rút hiệu quả cho cả virus suy giảm miễn dịch ở người-1 và HBV. Marcellin và cộng sự đã đánh giá bệnh nhân xơ gan có điểm Ishak ban đầu là 5 hoặc 6 (96 bệnh nhân), được điều trị bằng Tenofovir disoproxil fumarate. Cải thiện mô học với việc giải quyết xơ gan (giảm ≥ 1 giai đoạn) được ghi nhận ở 71 bệnh nhân (74%) sau khi hoàn thành 5 năm điều trị. Nó đã được chứng minh rằng ở những bệnh nhân HBV được điều trị bằng tenofovir hoặc entecavir; tất cả các điểm số không xâm lấn [aspartate aminotransferase (AST)/alanine aminotransferase, chỉ số AST / tỷ lệ tiểu cầu, Fibrosis-4, tỷ lệ phân bố thể tích hồng cầu trên chiều rộng tiểu cầu] thấp hơn đáng kể sau khi điều trị ở cả 12 và 24 tháng .

2. Bệnh gan do virus viêm gan C

Sự ra đời của các hợp chất mới và cực kỳ hiệu quả trong việc đạt được đáp ứng virus bền vững đang hứa hẹn trong điều trị bệnh nhân viêm gan C (CHC) mãn tính bị xơ hóa và xơ gan. Trong một nghiên cứu đánh dấu bao gồm bệnh nhân bị xơ hóa giai đoạn 2 hoặc lớn hơn lúc ban đầu, điều trị bằng kết hợp pegylated interferon alpha (IFN-α) và ribavirin đã làm giảm 82% điểm xơ hóa với một số chứng tỏ mô học gan bình thường / gần bình thường sau 5 năm sinh thiết gan theo dõi. Trong một nghiên cứu tiền cứu tương tự với những bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ kháng vi-rút (đơn trị liệu Interferon, IFN + ribavirin, hoặc IFN + ribavirin pegylated), 88% đã chứng minh điểm số xơ hóa được cải thiện bằng cách sử dụng các phép đo TE.

2.1 Vai trò của các tác nhân kháng virus thế hệ mới

Các tác nhân kháng virus trực tiếp mới lạ (DAA) đã thay đổi rất nhiều và cách mạng hóa việc điều trị CHC. Trong một nghiên cứu quan sát đa trung tâm, đáp ứng DAA được đánh giá trong số 392 bệnh nhân được điều trị viêm gan C dựa trên DAA. Kết quả cho thấy sự hồi quy TE (-32,4%) cũng như giảm tỷ lệ Fibrosis-4 (-29,1%) và giá trị chỉ số AST / tiểu cầu (-60,9%), khác biệt đáng kể giữa nhóm trước và sau điều trị. Các phát hiện tương tự đã được báo cáo trong một nghiên cứu gần đây chứng minh sự thoái triển 40% ở bệnh xơ hóa sau DAA, sử dụng phép đo TE. Sự thoái triển của xơ hóa phổ biến hơn đáng kể ở những bệnh nhân bị xơ hóa giai đoạn đầu so với những người bị xơ hóa gan F0-F1 ( P <0,001). Cải thiện tình trạng xơ hóa gan cũng đã được quan sát thấy với 12 tuần dùng sofosbuvir, đã chứng minh sự cải thiện tăng cường độ xơ hóa gan và đo độ cứng gan với FibroScan ® TE.

thuốc chẹn beta
Cải thiện tình trạng xơ hóa gan cũng đã được quan sát thấy với 12 tuần dùng sofosbuvir

2.2 Vai trò của hạt nano lipid BMS-986263

Một bản tóm tắt được công bố tại Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh gan Hoa Kỳ đã chứng minh hiệu quả của hạt nano lipid BMS-986263, cung cấp một axit ribonucleic gây nhiễu nhỏ ức chế protein sốc nhiệt 47, ở những bệnh nhân đã đạt được đáp ứng virus kéo dài trước đó. Sự cải thiện về cả điểm số xơ hóa METAVIR và Ishak đã được ghi nhận, mặc dù một số phản ứng thoáng qua liên quan đến truyền dịch, mặc dù nhỏ, cũng được quan sát thấy (NCT03420768).

2.3 Vai trò của Angiotensin II

Angiotensin II, được tiết ra bởi các tế bào hình sao, đã được chứng minh là thúc đẩy quá trình tạo sợi bằng cách liên kết với thụ thể angiotensin II type 1 và kích hoạt các phản ứng nội bào khác nhau qua trung gian Janus kinase 2. Trong một thử nghiệm lâm sàng nhỏ đã được công bố, bệnh nhân bị CHC và xơ hóa được điều trị bằng losartan, một chất đối kháng thụ thể angiotensin II, trong 18 tháng.

Sinh thiết sau điều trị của mười bốn bệnh nhân bị xơ hóa ≥ F2 cho thấy tỷ lệ xơ hóa được cải thiện ở 50% bệnh nhân, cùng với việc giảm đáng kể sự biểu hiện của một số gen tiền nguyên sinh. Các chất đối kháng thụ thể angiotensin II khác nhau sẽ được thảo luận thêm ở phần sau của tổng quan này.

Gần đây đã có những nghiên cứu chứng minh giảm nguy cơ tiến triển xơ hóa cũng như giảm sự phát triển xơ gan khi sử dụng statin ở bệnh nhân CHC. Các cơ chế có thể cho phép giảm sự tiến triển của xơ hóa bao gồm tác dụng kháng virus và điều hòa miễn dịch, giảm tăng áp lực tĩnh mạch cửa bằng cách tăng sự hình thành nitric oxide trong bào tử, và ức chế tế bào gan hình sao thông qua việc điều chỉnh một số yếu tố phiên mã nhất định .

Xơ gan còn bù và mất bù
Sinh thiết sau điều trị bằng losartan, một chất đối kháng thụ thể angiotensin II của mười bốn bệnh nhân bị xơ hóa ≥ F2 cho thấy tỷ lệ xơ hóa được cải thiện ở 50% bệnh nhân

3. Kết luận

Sự hình thành xơ hóa gan và tiến triển thành xơ gan là một cơ chế phức tạp có tác động qua lại giữa sự hình thành chất nền xơ và sự suy thoái của nó. Các nhà khoa học sẽ không chỉ tiếp tục nghiên cứu hiệu quả của từng loại thuốc mà nên tiếp tục phát triển các liệu pháp kết hợp nhắm vào các điểm khác nhau của chuỗi xơ hóa đồng thời. Lợi ích tiềm năng cũng có thể được khám phá bằng cách sử dụng các hợp chất có liên quan đến các dạng xơ hóa hệ thống khác, vì nhiều con đường được chia sẻ giữa các hệ thống cơ quan.

Để bảo vệ sức khỏe của mỗi người, hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec cung cấp cho khách hàng Gói Sàng lọc gan mật từ tiêu chuẩn đến nâng cao giúp chẩn đoán bệnh xơ gan nói riêng và các bệnh lý gan mật nói chung.

Vinmec là địa chỉ uy tín, tin cậy hàng đầu trong lĩnh vực sàng lọc và điều trị các bệnh về gan mật, với những ưu điểm nổi bật sau:

  • Là một trong ít những bệnh viện trên cả nước áp dụng siêu âm đàn hồi mô gan (hay còn gọi là kỹ thuật ARFI) theo dõi bệnh lý gan, đánh giá mức độ xơ gan như chẩn đoán hình ảnh, bộ xét nghiệm từ cơ bản đến chuyên sâu.
  • Với Hệ thống máy siêu âm LOGIQ E9 hiện đại, hệ thống siêu âm hình ảnh mạnh mẽ và linh hoạt đáp ứng dải rộng các nhu cầu thăm khám chung. Công nghệ mới dùng Shear Wave: Đây là công nghệ cho phép đo năng lượng đàn hồi của nhu mô một cách định tính và định lượng thông qua bảng mã hóa màu cùng với giá trị các mức đàn hồi bằng đơn vị áp lực Kpa.
  • Đội ngũ y bác sĩ chuyên khoa giàu kinh nghiệm chuyên môn giúp quá trình điều trị đạt hiệu quả cao, rút ngắn thời gian điều trị.
  • Dịch vụ khám, tư vấn chuyên nghiệp, toàn diện, không gian khám bệnh văn minh, lịch sự, an toàn, được tiệt trùng tối đa.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

  1. Toosi AE. Liver Fibrosis: Causes and Methods of Assessment, A Review. Rom J Intern Med. 2015;53:304-314. [PubMed] [DOI]
  2. Hernandez-Gea V, Friedman SL. Pathogenesis of liver fibrosis. Annu Rev Pathol. 2011;6:425-456. [PubMed] [DOI]
  3. Kochanek KD, Murphy SL, Xu J, Arias E. Deaths: Final Data for 2017. Natl Vital Stat Rep. 2019;68:1-77. [PubMed]
  4. Konstantinos Damiris, Efficacy and safety of anti-hepatic fibrosis drugs, World J Gastroenterol. Nov 7, 2020; 26(41): 6304-6321
Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

446 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan