Thiếu máu ở trẻ sơ sinh

Bài viết được viết bởi BSCK I Bùi Thị Hà, Khoa Nhi - Sơ sinh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long

Hầu hết các trẻ sơ sinh đều bị thiếu máu từ nhẹ đến trung bình mà không có triệu chứng. Chỉ khi trẻ có thiếu máu nặng thì mới có các triệu chứng. Nếu trẻ sơ sinh bị thiếu máu mà không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm.

Thiếu máu là tình trạng hematocrid (Hct) hoặc hemoglobin (Hgb) dưới mức trung bình so với tuổi. Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau

1. Nguyên nhân của thiếu máu

Là nguyên nhân hay gặp nhất, bao gồm:

  • Do nguyên nhân sản khoa: như rau bong non, rau tiền đạo, chấn thương rau hoặc dây rốn khi sinh, vỡ mạch máu bất thường của bánh rau, đứt dây rốn.
  • Truyền máu thai – mẹ: 8% người mẹ mang thai bình thường có sự truyền máu thai mẹ.
  • Truyền máu thai – bánh rau.
  • Truyền máu song thai.
  • Mất máu do chảy máu như chảy máu nội sọ, chảy máu dưới màng cứng, tụ máu dưới da.
  • Mất máu do quá trình điều trị như phải lấy máu xét nghiệm quá nhiều hay gặp nhất ở trẻ đẻ non.

Tăng phá hủy hồng cầu

  • Tại hồng cầu: thiếu men G6PD, bệnh hồng cầu hình liềm, α- thalassemia.
  • Ngoài hồng cầu: Tan máu miễn dịch (như bất đồng hệ nhóm máu ABO, Rh, và các hệ dưới nhóm...), u máu ( hội chứng kasabach Merritt), tan máu mắc phải (do nhiễm trùng, do dùng thuốc...)

Giảm sản xuất hồng cầu

  • Thiếu máu ở trẻ đẻ non do thiếu erythropoietin thoáng qua;
  • Thiếu máu do thiểu sản hoặc bất sản tủy;
  • Ức chế tủy xương ( nhiễm Rubella hoặc Parvovirus 19);
  • Thiếu máu dinh dưỡng (thiếu sắt) thường gặp sau giai đoạn sơ sinh.
Thiếu men G6PD: Bệnh có thể phát hiện nhờ sàng lọc sơ sinh
Trẻ thiếu men G6PD làm tăng nguy cơ thiếu máu

2. Triệu chứng

Triệu chứng của bệnh thay đổi tùy thuộc vào mức độ nặng của bệnh và các dấu hiệu kèm theo. Trường hợp thiếu máu nhẹ có thể không có triệu chứng

2.1. Có thể gặp các triệu chứng lâm sàng sau

  • Da xanh tái, niêm mạc nhợt;
  • Trẻ li bì, bú kém;
  • Suy hô hấp, thở nhanh, tăng nhu cầu oxy;
  • Nhịp tim nhanh, huyết áp hạ;
  • Gan, lách to gặp trong các trường hợp tan máu;
  • Thiếu máu nặng có thể thấy nhiễm toan chuyển hóa.

2.2. Cận lâm sàng

Tùy thuộc vào từng bệnh cụ thể mà có biểu hiện cận lâm sàng khác nhau:

  • Công thức máu: hồng cầu lưới, tiểu cầu;
  • Nhóm máu ABO, Rh, test Coomb;
  • Bilirubin (toàn phần, trực tiếp, gián tiếp);
  • Hồng cầu bào thai trong máu mẹ (HbF) trong trường hợp máu từ thai sang máu mẹ qua bánh rau;
  • Siêu âm não qua thóp phát hiện sớm xuất huyết não đặc biệt là ở trẻ sơ sinh đẻ non.
Kết quả xét nghiệm
Dựa vào kết quả xét nghiệm giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác trẻ thiếu máu

3. Điều trị

Tùy thuộc vào từng nguyên nhân mức độ của thiếu máu mà có phương pháp điều trị khác nhau

3.1. Trước sinh

Nếu thiếu máu nặng thì truyền máu bào thai

3.2. Sau sinh

Thiếu máu ở trẻ đẻ non:

  • Hạn chế lấy máu xét nghiệm nhiều
  • Bổ sung sắt, acid folic
  • Điều trị bằng erythropoietin người tái tổ hợp: liều 75 – 300 đơn vị/ kg/ tuần, tiêm dưới da trong 4 tuần, bắt đầu từ tuần thứ 3-4
  • Truyền khối hồng cầu theo chỉ định

Các nguyên nhân thiếu máu khác: Điều trị theo nguyên nhân. Truyền máu theo chỉ định từng trường hợp

4. Phòng bệnh

  • Với trẻ đẻ đủ tháng: nếu trẻ không bú mẹ, cho trẻ ăn sữa công thức bổ sung sắt 2mg/kg/ ngày hoặc uống thêm sắt 2 mg/kg/ngày (nếu không có sữa công thức bổ sung sắt)
  • Với trẻ đẻ non: Cho trẻ uống bổ sung

Trẻ uống siro
Cha mẹ có thể bổ sung sắt cho trẻ theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa Nhi

+ Sắt: 2-4 mg/kg/ ngày khi trẻ ăn hoàn toàn

+ Vitamin E: 15 – 25 UI / ngày cho đến khi trẻ được 38 – 40 tuần tuổi.

+ Erythropoietin có thể cân nhắc điều trị.

Tình trạng thiếu máu thiếu sắt có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm về sức khỏe lẫn tinh thần của trẻ, do đó, cha mẹ cần quan sát và bổ sung kịp thời nguồn vitamin quan trọng này.

Ngoài bổ sung qua chế độ ăn uống, cha mẹ có thể cho trẻ sử dụng thực phẩm hỗ trợ có chứa sắt và các vi khoáng chất thiết yếu như kẽm, Lysine, crom, selen, vitamin B... giúp đáp ứng đầy đủ nhu cầu về dưỡng chất ở trẻ. Đồng thời các vitamin thiết yếu này còn hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường khả năng hấp thu dưỡng chất, giúp cải thiện tình trạng biếng ăn, giúp trẻ ăn ngon miệng.

>> Cha mẹ có thể tìm hiểu thêm: Thiếu sắt có thể gây bệnh gì? Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Phan Đình Thủy Tiên - Bác sĩ Nội Tổng Quát - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang.

Hãy thường xuyên truy cập website Vinmec.com và cập nhật những thông tin hữu ích để chăm sóc cho bé và cả gia đình nhé.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

31.2K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan