Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Trương Thành Tâm - Bác sĩ Nhi khoa - Khoa Nhi - Sơ sinh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng.

Bệnh màng trong là bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh non tháng, khi phổi chưa trưởng thành, dẫn đến tình trạng suy hô hấp nặng. Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ sinh non. Tỷ lệ gặp phải khoảng 1% trên tổng số trẻ sơ sinh và 5 - 10% trẻ sơ sinh non tháng.

1. Màng trong là gì?

phổi của người bình thường, trong phế nang có chứa một chất giúp làm giảm hoạt bề mặt, có tác dụng duy trì tính ổn định của phế nang, làm cho các phế nang tránh bị xẹp, chất này được gọi là Surfactant.

Surfactant ở phổi của bào thai sẽ xuất hiện vào tuần thai thứ 20, chất này sẽ phủ vào vách trong của phế nang và có mặt trong nước ối vào tuần thai thứ 28 đến 36. Ở những trẻ đẻ non, phổi chưa thực sự trưởng thành, chất Surfactant chưa hoàn thiện.

Thiếu Surfactant sẽ khiến phế nang của trẻ bị xẹp, dẫn đến tình trạng huyết tương tràn vào phế nang, fibrin trong huyết tương sẽ lắng đọng bên trong phế nang và các tiểu phế quản tạo thành một lớp màng cản trở sự lưu thông không khí và sự trao đổi oxy, lúc này khí CO2 từ phế nang đi qua các mao mạch sẽ dẫn đến suy hô hấp và có thể gây tử vong nhanh.

2. Nguyên nhân gây bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh

Bệnh màng trong là một trong những bệnh hay gặp nhất gây suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, bệnh thường biểu hiện trong vài giờ hoặc vài ngày sau sinh. Bệnh gặp ở 5 - 10% trên tổng số trẻ đẻ non.

Thống kê cho thấy trẻ nhẹ cân sẽ có tỷ lệ mắc bệnh cao và tỷ lệ tử vong sẽ giảm theo thời gian xuất hiện bệnh. Hai nguyên nhân chính gây bệnh là: Sinh non và thai ngạt bên trong tử cung.

Phổi của trẻ sinh non vẫn chưa trưởng thành, độ thẩm thấu của mao mạch phổi và màng phế nang tăng dễ gây phù ở tổ chức kẽ và trong lòng phế nang. Điều này dẫn đến việc tế bào máu, huyết tương, fibrin thoát mạch tràn vào phế nang. Sau khi dịch rút đi, fibrin và một số hồng cầu vẫn còn tồn đọng lại trong lòng phế nang.

Khi thai ngạt, các tế bào phế nang bị thiếu dưỡng khí oxy, dinh dưỡng tế bào kém nên trẻ sản xuất không đủ chất surfactant, không tạo được sức căng bề mặt dẫn đến phế nang bị xẹp, quá trình trao đổi khí kém dẫn đến suy hô hấp.

Trên thực tế sẽ thấy suy hô hấp xuất hiện sau một thời gian ngắn (một vài giờ hoặc vài ngày) và nhanh chóng gây rối loạn trao đổi khí, không khí không thể khuếch tán qua màng phế nang được khiến trẻ phải gắng sức thở, trẻ nhanh chóng bị suy kiệt.

sinh non do mẹ bị viêm gan B
Sinh non là nguyên nhân khiến trẻ mắc bệnh màng trong

3. Triệu chứng của bệnh màng trong

Tiền sử bệnh thường xuất hiện ở trẻ sinh non, thai ngạt. Người mẹ có mắc các bệnh lý như đái tháo đường, xuất huyết sinh dục trước sinh. Các triệu chứng bệnh màng trong xuất hiện sau sinh vài giờ hoặc vài ngày, đặc biệt là trong vòng 6 giờ đầu.

  • Trẻ đang thở bình thường thì đột ngột xuất hiện suy hô hấp: Triệu chứng tím tái xuất hiện ngày càng tăng, trẻ thở nhanh >60 lần/phút, trẻ sinh quá non, thậm chí thở chậm.
  • Trẻ co kéo cơ hô hấp thấy rõ: hiện tượng rút lõm lồng ngực, cánh mũi phập phồng.
  • Trẻ thở rên: chủ yếu ở thì thở ra.
  • Rối loạn tim mạch: mạch nhanh >120 chu kỳ/phút.

Nếu biểu hiện bệnh màng trong nhẹ và điều trị đúng thì sau khoảng 72 giờ, các triệu chứng sẽ giảm dần. Nếu nặng, các dấu hiệu tím tái, khó thở tăng lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ sẽ tử vong sau vài giờ. Tuy nhiên, trẻ sau khi khỏi bệnh vẫn có thể để lại di chứng khá nặng nề như thiếu oxy não, xuất huyết não, hạ đường huyết...

Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh
Suy hô hấp đột ngột là dấu hiệu của bệnh màng trong

4. Điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh

Nguyên tắc điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh

  • Sử dụng dự phòng corticoid trước sinh.
  • Surfactant ngoại sinh.
  • Điều trị thông khí hỗ trợ

Dự phòng corticoid trước sinh

Corticoid được chỉ định sử dụng cho các bà mẹ có nguy cơ cao sinh non từ 23 – 34 tuần.

Surfactant ngoại sinh

Dự phòng suy hô hấp do bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh: Sử dụng surfactant ngoại sinh sớm để dự phòng suy hô hấp cho các ca sinh non < 27 tuần tuổi thai. Hiện nay, surfactant đã được chủ động sử dụng sớm cho những trẻ có nguy cơ cao, không chờ tới khi đã có suy hô hấp. Có 2 loại Surfactant:

  • Surfactant tự nhiên (từ người, lợn hoặc bò): Survanta.
  • Surfactant tổng hợp: Newfactan

Đường dùng Surfactant: bơm vào phổi thông qua nội khí quản. Liều từ 50 - 200 mg/kg/lần, tùy vào mức độ nặng của bệnh. Liều lặp lại: khi bệnh nhân cần FiO2 > 30% và không rút được nội khí quản sau bơm surfactant. Tối đa có thể lặp lại 3 lần.

Điều trị thông khí hỗ trợ

Thở nCPAP (thở áp lực dương liên tục qua mũi) để ngăn ngừa xẹp phế nang, giúp duy trì dung tích cặn chức năng và giảm thiểu các các cơn ngừng thở. Thở máy không xâm nhập (NIPPV) để tránh các chấn thương do ống nội khí quản gây ra. Chỉ thở máy xâm nhập khi có trẻ sơ sinh có một trong 3 tiêu chuẩn sau:

  • Toan hô hấp: pH < 7.2 và pCO2 > 60mmHg với thở nCPAP.
  • Giảm oxy: PaO2 60mmHg với nCPAP.
  • Cơ ngừng thở kéo dài.

Để phòng tránh bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh, các thai phụ phải đảm bảo sức khỏe và chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt khoa học, lao động phù hợp. Cần khám và theo dõi thai đều đặn để hạn chế sinh non hoặc sinh con nhẹ cân.

Xem thêm: Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh màng trong

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

4.2K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan