Rối loạn chuyển hóa và béo phì: Những điều cần biết

Hội chứng chuyển hóa được định nghĩa là một nhóm các yếu tố nguy cơ về chuyển hóa tim mạch có liên quan đến sự đề kháng của insulin. Ngoài tầm quan trọng của mỗi yếu tố nguy cơ riêng biệt, thì sự kết hợp của béo bụng, giảm chuyển hóa glucose, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp được gọi chung là hội chứng chuyển hóa, những cá nhân này có gia tăng rõ rệt nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 và bệnh tim mạch.

1. Hội chứng chuyển hóa của béo phì

Không phải tất cả những trường hợp thừa cân hoặc béo phì có rối loạn chuyển hóa, nhưng đa số họ có đề kháng insulin. Béo phì trung tâm được cho là bước khởi đầu của tiến trình bệnh sinh. Mỡ nội tạng có tiết ra một loạt các chất có hoạt tính sinh học gọi là các adipocytokine như leptin, resistin, yếu tố hoại tử u α (TNFα), interleukin-6 (IL-6), và angiotensin II dẫn tới kháng insulin, cùng với chất ức chế hoạt hóa plasminogen (PAI-1), có liên quan đến các bệnh mạch máu do tắc mạch.

Điều đáng chú ý, adiponectin - một adipocytokine quan trọng bảo vệ chống lại sự phát triển của đái tháo đường tuýp 2, tăng huyết áp, viêm, xơ vữa động mạch và bệnh mạch máu - bị giảm ở những người có tích tụ mỡ nội tạng, và điều này có thể liên quan nhân quả đến hội chứng chuyển hóa.

Các hợp chất khác được sản xuất bởi các mô mỡ có thể là nguyên nhân gây hội chứng chuyển hóa, là các axit béo tự do không ester hóa (FFAs). Với sự hiện diện của kháng insulin, quá trình huy động FFAs từ triglyceride tích trữ ở mô mỡ sẽ gia tăng. Tại gan, FFAs có tác dụng làm tăng sản xuất glucose và triglyceride, bài tiết VLDL, tạo thành một vòng luẩn quẩn. Bên cạnh đó, FFAs cũng làm giảm nhạy cảm insulin ở cơ bằng cách ức chế sự hấp thu glucose, tăng sản xuất fibrinogen và PAI-1.

Béo phì
Không phải tất cả những trường hợp thừa cân hoặc béo phì có rối loạn chuyển hóa, nhưng đa số họ có đề kháng insulin

Tình trạng béo phì gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng về mặt y tế, bao gồm nhất là những bất thường về chuyển hóa, ung thư, tàn phế, hội chứng ngưng thở lúc ngủ do tắc nghẽn và tiểu không tự chủ. Đề kháng insulin, như là một rối loạn chính của các bệnh có liên quan đến béo phì.

Mức độ đề kháng insulin cho thấy gia tăng theo độ tuổi, và do vậy ở những người cao tuổi dễ hình thành các yếu tố nguy cơ chuyển hóa tim mạch hơn và được gọi chung là hội chứng chuyển hóa. Nhiều bệnh nhân cao tuổi thường chưa có nhận thức đúng đắn khi được chẩn đoán hội chứng chuyển hóa, vì vậy mà dễ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng đó là bị tàn phế. Thừa cân, béo phì và đặc biệt là dạng tích tụ mỡ vùng trung tâm có liên quan đến sự đề kháng insulin.

Béo phì là kết quả của sự cân bằng năng lượng dương trong một thời gian dài dựa trên những tương tác phức tạp giữa các yếu tố môi trường và gen. Các nghiên cứu ở những gia đình có nhận người con nuôi và sinh đôi đã cho thấy tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của gen và cho thấy rằng các giá trị BMI có liên quan giữa các thành viên trong gia đình dù được nuôi nấng chăm sóc riêng.

Bên cạnh các dạng béo phì hiếm gặp do một gen gây ra, thì hơn 100 gen gây ra béo phì ở con người đã được xác định cho đến thời điểm hiện tại . Các gen có tính nhạy cảm này sẽ ảnh hưởng đến việc điều hòa cân nặng, sự biệt hóa các tế bào tạo mỡ và chuyển hóa.

Dựa trên nền tảng về mặt di truyền này, các yếu tố môi trường gồm lối sống kém sự vận động, bữa ăn giàu năng lượng và các khía cạnh về mặt xã hội, làm gia tăng nguy cơ béo phì. Một kết quả được công bố gần đây của nghiên cứu Framingham đưa ra một lời giải thích thú vị về sự gia tăng tần suất béo phì trên toàn thế giới rằng một người sẽ dễ bị béo phì khi bạn, anh chị em hoặc người bạn đời của người đó bị béo phì. Mạng lưới xã hội cũng có thể là một yếu tố có liên quan đến sự bùng phát béo phì.

Béo phì
Béo phì làm tăng nguy cơ cho nhiều bệnh lý kèm theo, và những tiến bộ gần đây về sinh học mô mỡ cho một cái nhìn sâu hơn về các cơ chế sinh bệnh học phức tạp

Các sản phẩm tiền viêm và nội tiết khác nhau từ mô mỡ nội tạng tương tác với dòng thác phát tín hiệu của insulin có thể được xác định. Trong số những sản phẩm này, adiponectin giúp tránh sự đề kháng insulin và bệnh tim mạch, trong khi đó các acid béo tự do, leptin, resistin và các sản phẩm tiền viêm thúc đẩy dẫn đến đề kháng insulin. Leptin, là sản phẩm của gen gây béo phì, chủ yếu được sản xuất bởi mô mỡ, giúp điều hòa sự hấp thu thức ăn và tiêu thụ năng lượng, sự chuyển hóa acid béo ở cơ vân và sản xuất glucose ở gan.

Hầu hết các dạng thường gặp của béo phì có đặc điểm là nồng độ cao leptin lưu hành trong máu và sự đề kháng với leptin. Leptin có cấu trúc tương tự với các cytokine tiền viêm, như interleukin (IL)-6 mà IL này có ảnh hưởng đến tác động của insulin. Các tế bào của phần mạch máu đệm trong mô mỡ, và đặc biệt là mỡ nội tạng, là những nguồn quan trọng sản xuất ra IL-6 . Yếu tố hoại tử bướu alpha (TNF-a) là một adipocytokine khác được nghiên cứu nhiều và có thể có mối liên hệ với béo phì, viêm dưới mức lâm sàng và đề kháng insulin. TNF-a làm giảm hoạt động của insulin bằng cách ức chế sự chuyển tiếp của adiponectin. Các adipocytokines mới khác với những tác động lên độ nhạy cảm của insulin gần đây được phát hiện, gồm visfatin, mà nó làm gia tăng sản xuất IL-6 và TNF-a , protein-4 gắn kết với retinol, vaspin và omentin.

Bên cạnh các adipocytokines, sự tuôn ra ào ạt của các acid béo từ mô mỡ là nguyên nhân chính hình thành lên hội chứng chuyển hóa. Các acid béo tự do được phóng thích từ các triglycerides của mô mỡ thông qua hoạt động của men lipase nhạy cảm với hormone, và từ các lipoprotein giàu triglyceride thông qua ly giải mô mỡ bởi men lipoprotein lipase. Do cả hai cơ chế này được điều hòa bởi insulin, nên sự đề kháng insulin dẫn đến việc tăng hơn nữa sự phóng thích các acid béo tự do từ các mô mỡ và làm giảm sự thanh thải các lipoprotein giàu triglyceride .

Tăng nồng độ acid béo tự do trong huyết tương, liên quan với mức độ đề kháng insulin cao hơn, dẫn đến làm giảm tác động ức chế của insulin lên việc sản xuất glucose và tân tạo mỡ ở gan. Kết quả là sự lắng đọng lipid ở các vị trí ngoại lai như gan, cơ vân và các đảo tụy, có thể xảy ra cùng với việc giảm chức năng của các cơ quan chuyên biệt (ngộ độc mỡ). Ngoài ra, có giả thuyết cho rằng một chế độ ăn giàu năng lượng - như là một sự kiện khởi đầu cho việc hình thành đề kháng insulin - làm quá tải mô mỡ, khả năng để dự trữ acid béo tự do trong các tế bào mỡ quá mức, và các lipid tích tụ ở các vị trí ngoại lai (giả thuyết chảy tràn ra).

2. Chế độ ăn cho người mắc chứng rối loạn chuyển hóa

2.1.Giảm lượng chất béo (lipid) ăn vào

Tùy theo từng BMI, chất béo chỉ nên chiếm 15 - 20% tổng năng lượng với tỉ lệ: chất béo no chiếm 1/3 tổng số chất béo, 1/3 là acid béo chưa no nhiều nối đôi và 1/3 còn lại là acid béo chưa no một nối đôi.

Nên dùng dầu lạc, dầu olive, dầu đỗ tương thay cho mỡ và nên ăn các loại hạt có dầu như: vừng, lạc, hạt dẻ, hạt bí ngô để cung cấp các acid béo không no có nhiều nối đôi omega 3, omega 6. Loại bỏ các thức ăn chứa nhiều acid béo no như: mỡ, bơ, nước luộc thịt.

Giảm lượng cholesterol ăn vào xuống dưới 250mg/ngày bằng cách không ăn các thực phẩm có nhiều cholesterol như: não (2.500mg%), bầu dục bò (400mg%), bầu dục lợn (375mg), gan lợn (300mg%), gan gà (440mg%). Hạn chế các loại thức ăn này sẽ góp phần làm giảm lượng cholesterol trong khẩu phần ăn. Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol, nhưng đồng thời có nhiều lecithin (một chất điều hòa chuyển hóa cholesterol trong cơ thể). Do đó, ở những người có cholesterol máu cao, không nhất thiết phải kiêng hẳn trứng mà chỉ nên ăn trứng l - 2 lần/tuần, mỗi lần ăn 1 quả.

2.2.Sử dụng chất đạm (protein) một cách hợp lý

Lượng chất đạm chỉ nên chiếm khoảng 13 - 15% năng lượng khẩu phần ăn hàng ngày.

Thịt bò
Nên sử dụng thịt ít béo như thịt bò trong khẩu phần ăn
  • Nên sử dụng thịt ít béo như: thịt bò nạc, thịt gà nạc bỏ da, thịt lợn thăn, nên dùng cá, đậu đỗ. Nên ăn các sản phẩm được chế biến từ đậu tương: sữa đậu tương, đậu phụ, tào phớ, bột đậu tương, sữa chua đậu tương... Thực phẩm làm từ đậu tương chứa nhiều estrogen thực vật (isoflavone) có tác dụng làm giảm đáng kể nồng độ cholesterol toàn phần, cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và triglycerid (những thành phần làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch).
  • Trong thực đơn nên ăn cá ít nhất 3 lần/tuần.
  • Tăng cường chất xơ trong khẩu phần ăn: nên ăn 400 - 500g rau xanh/ngày và 300g quả chín/ngày.
  • Thay đổi cách chế biến các món ăn như: tăng cường hấp, luộc, ninh, nhúng, chao, hầm; không dùng các phương pháp chế biến rán, hun, quay, nướng...

3. Phòng ngừa

Phòng ngừa và kiểm soát béo phì, hội chứng chuyển hóa đòi hỏi sự quản lý sớm và mạnh mẽ dựa trên các nguyên tắc chính sau đây:

  • Các biện pháp phòng ngừa nên đặc biệt mạnh mẽ đối với những người có tiền sử gia đình đái tháo đường tuýp 2 hoặc bệnh mạch vành sớm.
  • Bác sĩ nên theo dõi chặt chẽ tốc độ tăng trưởng của trẻ em để tránh tình trạng béo phì trẻ em và bắt kịp béo phì.
  • Các chỉ số cân nặng cơ thể và nhân trắc học cho người lớn nên được duy trì trong giới hạn bình thường dựa trên các dữ liệu gần đây. Theo tuyên bố đồng thuận gần đây cho người Ấn Độ Châu Á, chỉ số BMI nên được duy trì từ 18 đến 22,9, và chu vi vòng eo nên được duy trì dưới 90cm đối với nam giới và 8cm đối với phụ nữ.
  • Những cá nhân thừa cân và những người béo bụng nên được quản lý một cách chủ động để giảm cân bằng các biện pháp lối sống.

Phát hiện một thành phần của hội chứng chuyển hóa sẽ dẫn đến tìm kiếm các thành phần khác và quản lý nó.

Tổng cộng 60 phút hàng ngày hoạt động thể chất được khuyến khích cho công tác phòng chống và quản lý bệnh béo phì và hội chứng chuyển hóa cho người Ấn Độ châu Á. Điều này bao gồm hoạt động aerobic, hoạt động liên quan đến công việc và các hoạt động tăng cường cơ bắp.

Chế độ ăn uống nên được cân bằng gồm carbohydrate (55-65% lượng calo) với sự nhấn mạnh vào carbohydrate phức tạp, tổng số chất béo và chất béo bão hòa được hạn chế (7-10% của tổng số calo), đầy đủ axit béo chưa bão hòa đơn (monounsaturated fatty acids, MUFAs), axit béo chưa bão hòa đa loại omega 3 ( -3 polyunsaturated fatty acids, -3 PUFA) và chất xơ. Các loại dầu và thực phẩm có chứa axit béo loại trans nên tránh nghiêm ngặt.

Những thay đổi lối sống mang tính điều trị cần được khuyến khích từ thời thơ ấu, với sự tư vấn chặt chẽ về hoạt động thể chất thường xuyên và sử dụng hạn chế truyền hình/ Internet. Theo hướng dẫn mới đây cho người Ấn Độ Châu Á, trẻ em nên thực hiện ít nhất 60 phút hoạt động thể chất ngoài trời. Thời gian màn hình (truyền hình / máy tính) nên ít hơn 2 giờ một ngày. Lối sống lành mạnh nên được khắc sâu ở trẻ em thông qua việc thực hiện nghiêm ngặt các chương trình y tế học đường.

Đi bộ
Tổng cộng 60 phút hàng ngày hoạt động thể chất được khuyến khích cho công tác phòng chống và quản lý bệnh béo phì và hội chứng chuyển hóa

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết tham khảo nguồn: Hội Tim mạch học Việt Nam

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

20.2K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan