Bệnh ngộ độc thịt: Những điều cần biết ( Phần 2)

Bài viết bởi Bác sĩ chuyên khoa II Phạm Thị Khương - Bác sĩ truyền nhiễm - Trung tâm Nhi - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

Ngộ độc thịt (botulism) gây ra bởi độc tố của Clostridium botulinum và gây ảnh hưởng đến thần kinh ngoại biên. Người bệnh có thể nhiễm botulism mà không gây bệnh nếu nuốt, tiêm hoặc hít phải độc tố.Triệu chứng bao gồm liệt dây thần kinh sọ đối xứng kèm theo yếu hai bên và liệt mềm mà không có rối loạn cảm giác. Chẩn đoán bằng lâm sàng và xét nghiệm tìm thấy độc tố. Điều trị hỗ trợ và kháng độc tố.

1. Bệnh ngộ độc thực phẩm

Bệnh ngộ độc thực phẩm là do ăn phải thực phẩm bị nhiễm độc tố botulinum đã được định hình sẵn. Các loại độc tố A, B và E đều có liên quan đến ngộ độc thực phẩm.

1.1. Nguồn độc tố

Thực phẩm đóng hộp, đặc biệt là thức ăn có độ acid thấp (pH> 4.5) là nguồn nhiễm độc tố phổ biến nhất qua đường tiêu hóa; thực phẩm chế biến thương mại có liên quan đến khoảng 10% số vụ bùng phát. Rau quả (thường không phải là cà chua), cá, trái cây và gia vị là phương tiện truyền bệnh phổ biến nhất; thịt bò, các sản phẩm từ sữa, thịt lợn, gia cầm và các loại thực phẩm khác cũng có thể gây bệnh. Trong các vụ dịch bùng phát gây ra bởi hải sản, type E gây ra khoảng 50%; các type A và B gây ra phần còn lại. Trong những năm gần đây, thực phẩm không đóng hộp (ví dụ như khoai tây nướng lát mỏng, tỏi băm nhỏ chiên dầu, bánh mì sandwich) đã gây ra các ổ dịch liên quan đến nhà hàng. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ ngộ độc thực phẩm cao nhất được báo cáo ở người Thổ dân Alaska do ăn cá và động vật biển có vú đã lâu năm. Dữ liệu giám sát từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) từ năm 1947 đến năm 2007 cho thấy tỷ lệ mắc trung bình hàng năm là 6,9 trường hợp trên 100.000 người Alaska bản địa so với tỷ lệ chung của toàn quốc là 0,0068 trường hợp trên 100.000 người. Độc tố loại E là loại phổ biến nhất liên quan đến ngộ độc thực phẩm ở Alaska.

Đôi khi độc tố được hấp thụ qua mắt hoặc vết thương hở trên da. Những trường hợp như vậy thường gây ra bệnh nghiêm trọng. Bào tử C. botulinum phổ biến trong môi trường; hầu hết các trường hợp nhiễm botulism ở trẻ sơ sinh là do ăn phải bào tử, đặc biệt là ăn mật ong.

Các bào tử cũng có thể xâm nhập vào cơ thể khi tiêm thuốc bằng kim tiêm không vô khuẩn; vết thương có thể nhiễm botulism. Tiêm heroin bị nhiễm bẩn vào cơ hoặc dưới da (da bị kích thích) là nguy cơ cao nhất; nó có thể gây hoại thư sinh hơi như botulism. Nếu độc tố botulinum xâm nhập vào máu, gây ngộ độc, bất kể chất độc nhiễm theo đường nào.

mật ong với sữa
Trẻ sơ sinh ăn mật ong có nguy cơ nhiễm C. botulinum

Các sản phẩm thương mại và nhà hàng đôi khi là nguồn cung cấp; các nguồn thương mại cụ thể bao gồm nước ép cà rốt và xúc xích được bảo quản lạnh không đúng cách. Ở Việt Nam từ Ngày 31/8/2020, theo TS.BS Nguyễn Trung Nguyên - Giám đốc Trung tâm Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai cho biết: Hiện tại, Trung tâm đã tiếp nhận 2 bệnh nhân nhập viện điều trị nội trú và 4 bệnh nhân khác tới khám do ngộ độc thực phẩm liên quan đến độc tố botulinum. Tất cả các trường hợp này đều đã sử dụng thực phẩm pate Minh Chay. Đến ngày 3/9, thêm 6 bệnh nhân (BN) sau khi dùng Pate Minh Chay. Cụ thể là 2 BN ở Khánh Hòa, 2 BN ở Đồng Nai và 2 BN ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Cho đến đầu tháng chín này ở Việt Nam có hơn 20 người đến khám hoặc phải nhập viện điều trị do có dấu hiệu nhiễm vi khuẩn Clostridium botulinum được tìm thấy trong pate Minh Chay.

1.2. Ngộ độc vết thương

C botulinum có thể gây nhiễm trùng vết thương và sau đó tạo ra chất độc thần kinh in vivo. Về lý thuyết, ngộ độc vết thương chỉ nên liên quan đến vết thương thủng, áp xe dưới da và nhiễm trùng khoang sâu, những nơi cung cấp môi trường yếm khí cần thiết cho bào tử nảy mầm và sinh vật phát triển. Theo đó, ngộ độc vết thương có liên quan đến việc sử dụng ma túy qua đường tiêm chích, đặc biệt là “thuốc phiện” và tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Chứng ngộ độc vết thương tái phát đã xảy ra ở một số người tiêm chích ma túy.

Tuy nhiên, các trường hợp cũng đã được mô tả liên quan đến trầy xước, vết rách, gãy xương hở, vết mổ và thậm chí tụ máu kín mà không có khuyết tật da đáng kể. Một trường hợp đã được báo cáo về áp xe vùng chậu, liệt và nhiễm độc máu do C. botulinum sau phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi.

Ngộ độc vết thương cũng đã được báo cáo ở những bệnh nhân hít cocaine. Các bệnh nhân bị viêm xoang, trong đó một bệnh nhân phát triển C. botulinum từ dịch hút xoang.

Trong nhiễm botulism do thầy thuốc, mắc phải độc tố type A khi tiêm trị liệu để làm giảm căng cơ quá mức; nhiễm độc xảy ra sau khi tiêm mỹ phẩm (với độc tố botulinum) có xảy ra nhưng hiếm.

C. botulinum
C botulinum có thể gây nhiễm trùng vết thương

2. Bệnh ngộ độc liên quan đến khủng bố sinh học

Các độc tố C. botulinum là độc tố mạnh nhất được biết đến, và đã có sự quan tâm phát triển chúng như là tác nhân của khủng bố sinh học. Công ước về vũ khí sinh học và độc tố năm 1972 cấm nghiên cứu và sản xuất vũ khí sinh học, mặc dù người ta tin rằng Iran, Iraq, Triều Tiên và Syria có nguồn cung cấp độc tố botulinum dành cho khủng bố do nhà nước bảo trợ. Bất chấp hiệu lực của chất độc này, việc ứng dụng nó như một vũ khí khủng bố sinh học đã bị cản trở bởi sự phức tạp về kỹ thuật trong việc cô đặc và ổn định chất độc để tạo sol khí.

Phương thức lây truyền giả định của chứng ngộ độc thịt liên quan đến khủng bố sinh học là hít phải chất độc dạng khí dung, mặc dù lây truyền qua đường tiêu hóa cũng là một phương thức tấn công có thể xảy ra. Người ta ước tính rằng việc hít phải độc tố botulinum dạng khí dung sẽ dẫn đến tình trạng liệt mềm đối xứng cấp tính giảm dần với các chứng liệt chi nổi rõ (nhìn đôi, loạn cảm, khó nuốt và khó nuốt) sau 12 đến 72 giờ.

Các triệu chứng và dấu hiệu nhiễm độc botulism thường gặp bao gồm:

Phản xạ ánh sáng giảm hoặc hoàn toàn mất. Khó nuốt có thể dẫn đến viêm phổi hít. Các triệu chứng thần kinh điển hình xuất hiện ở cả hai bên và đối xứng, bắt đầu với liệt dây thần kinh sọ và sau đó yếu dần hoặc liệt.

Không có rối loạn cảm giác, và cảm giác vẫn rõ ràng. Yếu dần từ ngọn chi và thân mình và các cơ hô hấp. Thường không sốt, mạch bình thường hoặc chậm, trừ khi có nhiễm trùng khác kèm theo. Táo bón là triệu chứng phổ biến sau khi có liệt cơ trơn thành ruột.

Các biến chứng chủ yếu của bệnh nhiễm độc botulism bao gồm:

Suy hô hấp là biến chứng thần kinh của bệnh mà trẻ có thể mắc
Suy hô hấp là một biến chứng của bệnh nhiễm độc botulism

3. Theo thể bệnh

3.1. Bệnh ngộ độc thực phẩm

Các triệu chứng bắt đầu đột ngột, thường là từ 12 đến 36 giờ sau khi ăn phải độc tố, mặc dù giai đoạn ủ bệnh có thể thay đổi từ vài giờ đến 14 ngày.

Biểu hiện sớm thường xảy là: Buồn nôn, nôn mửa, đau thắt bụng và tiêu chảy, sau đó các triệu chứng thần kinh mới xuất hiện. Các triệu chứng hoang tưởng thường bao gồm buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy và khô miệng kèm theo đau họng trước khi phát triển bệnh thần kinh sọ và suy nhược giảm dần, nhưng những triệu chứng này có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong suốt quá trình bệnh. Biểu hiện của bệnh có thể khác nhau, từ phàn nàn nhẹ đến tử vong trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi phát triển các triệu chứng. Trong các trường hợp nhẹ khác, biểu hiện liệt của dây thần kinh sọ ở mắt là rất ít gặp hoặc hiếm khi là biểu hiện duy nhất của bệnh.

Buồn nôn là một trong những tác dụng phụ hay gặp phải khi uống vitamin
Nôn và buồn nôn là những triệu chứng của ngộ độc thực phẩm

3.2. Bệnh nhiễm độc từ vết thương

Triệu chứng thần kinh xuất hiện tương tự như trong bệnh ngộ độc thực phẩm, nhưng không có triệu chứng đường tiêu hóa hoặc bằng chứng liên quan đến thực phẩm. Tiền sử chấn thương hoặc vết thương châm sâu (đặc biệt nếu tiêm chích ma túy) trong vòng 2 tuần trước đó có thể gợi ý chẩn đoán.

Cần khám xét kỹ các trường hợp có vết thương hở trên bề mặt da và các trường hợp apxe da do tiêm chích thuốc.

  • Khởi phát: Thường là triệu chứng và có thể liên quan đến tổn thương thần kinh sọ bao gồm mờ mắt (thứ phát sau giãn đồng tử cố định và liệt dây thần kinh sọ III, IV và VI) thường gặp ở người lớn, nhìn đôi, rung giật nhãn cầu, chứng liệt nửa người, khó nuốt, rối loạn nhịp tim và yếu mặt. Biểu hiện lâm sàng trẻ em phổ biến nhất là khó nuốt, rối loạn tiêu hóa và suy nhược toàn thân.
  • Yếu cơ giảm dần thường tiến triển lan đến thân và chi trên, sau đó là chi dưới. Bí tiểu và táo bón thường gặp do liệt cơ trơn. Đôi khi thấy dị cảm và yếu chi không đối xứng. Khó thở (ví dụ, khó thở) cần đặt nội khí quản và thở máy là phổ biến, và do liệt cơ hoành, tổn thương đường hô hấp trên hoặc cả hai. Khoảng 40 phần trăm bệnh nhân được trình bày tại thời điểm nhập viện với tình trạng liên quan đến hô hấp (khó thở hoặc suy hô hấp); trong số đó, chỉ có 42 phần trăm có bằng chứng về tình trạng yếu quá mức vào thời điểm đó.
  • Các triệu chứng tiêu hóa không đặc hiệu cũng có thể gặp và đôi khi là các biểu hiện chủ yếu.

Mặc dù có bằng chứng về sự liên quan đến thần kinh, nhưng hiếm khi có rối loạn dịch não tủy. Đôi khi thấy protein dịch não tủy tăng cao.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

1.P Samuel Pegram, MD, FACP;Sean M Stone, MD. Botulism; 2020 UpToDate, Inc. and/or its affiliates. All Rights Reserved

2.Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh về cơ xương khớp

(Ban hành kèm theo Quyết định số 361/QĐ-BYT Ngày 25 tháng 01 năm 2014 của Bộ trưởng BYT)
3.Zingnews.Tạpchíđiệntử.Trithứctrựctuyến.Cơquanchủquản:HộiXuấtbảnViệtNam.Giấy phép báo chí: số 75/GP-BTTTT

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

1.7K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan
  • tinizol
    Công dụng thuốc Tinizol

    Thuốc Tinizol được chỉ định trong điều trị nhiễm trùng kỵ khí đường tiêu hoá, phụ khoa hay mô mềm... Tuy nhiên, với một số trường khi sử dụng thuốc có thể gặp tác dụng phụ không mong muốn như ...

    Đọc thêm
  • banner natives image QC
    Giải pháp cho người tổn thương gan do sử dụng bia rượu

    Kanzou Ukon mang lại nhiều công dụng nhờ sự kết hợp của 4 thành phần độc đáo như Mầm súp lơ, nghệ vàng,...

    Đọc thêm
  • Natatin
    Công dụng thuốc Natatin

    Thuốc Natatin thuộc nhóm thuốc phụ khoa, có thành phần chính là 500g Metronidazole và 100mg Miconazole nitrate. Thuốc điều trị bệnh viêm âm đạo khí hư do nhiễm Trichomonas, nhiễm nấm, nhiễm khuẩn do các vi khuẩn kỵ khí ...

    Đọc thêm
  • nakonol
    Công dụng thuốc Nakonol

    Thuốc Nakonol có tác dụng gì, có phải thuốc kháng sinh không? Với thành phần chính là Tinidazole, thuốc Nakonol được dùng trong điều trị nhiễm khuẩn, đặc biệt là do vi khuẩn kỵ khí gây ra.

    Đọc thêm
  • penzobact
    Công dụng thuốc Penzobact

    Penzobact thuộc nhóm thuốc trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn, kháng virus, kháng nấm và được bào chế ở dạng thuốc bột pha tiêm. Thành phần chính của thuốc là piperacillin và tazobactam được chỉ định điều trị nhiễm ...

    Đọc thêm
  • Meclogynaz
    Công dụng thuốc Meclogynaz

    Meclogynaz là thuốc đặt âm đạo được kê đơn sử dụng nhằm điều trị cho các trường hợp nhiễm nấm gây viêm âm đạo. Để thuốc Meclogynaz phát huy đầy đủ công dụng diệt khuẩn, bệnh nhân nên sử dụng ...

    Đọc thêm