Tổn thương thần kinh ở bệnh nhân đồng nhiễm lao và HIV

Bài viết được viết bởi ThS.BS Vũ Duy Dũng - Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

Lao và HIV/AIDS tạo nên gánh nặng lớn về bệnh nhiễm trùng ở các quốc gia có nguồn lực hạn chế. Trong cơ thể bệnh nhân, hai tác nhân gây bệnh này, vi khuẩn lao và virus HIV, thúc đẩy lẫn nhau để làm tăng nhanh tốc độ suy giảm chức năng miễn dịch và dẫn tới tử vong nếu không được điều trị.

1. Dịch tễ học của đồng nhiễm Lao/HIV

Ước tính có khoảng 14 triệu người trên toàn thế giới đồng nhiễm HIV và vi khuẩn lao, và ước tính bệnh lao vẫn là nguyên nhân gây tử vong ở người nhiễm HIV. Nhiễm HIV ước tính làm tăng nguy cơ mắc bệnh lao lên gấp 20 lần so với những người không nhiễm HIV ở các quốc gia có tỷ lệ cao nhiễm HIV.

Trong số ước tính 8,7 triệu người mắc bệnh lao trên toàn cầu trong năm 2012, khoảng 1,1 triệu người (13%) ước tính có đồng nhiễm HIV. Trong 2,8 triệu người mắc bệnh lao được sàng lọc HIV vào năm 2012, 20% dương tính với HIV. Ước tính hơn 75% các ca bệnh lao có dương tính HIV sống ở 10 quốc gia (Ethiopia, Ấn Độ, Kenya, Mozambique, Nigeria, Nam Phi, Cộng hòa Tanzania, Uganda, Zambia, và Zimbabwe).

Tỷ lệ hiện mắc tăng lên của bệnh lao hoạt động ở những người nhiễm HIV có thể do ít nhất hai cơ chế: tăng tái hoạt động bệnh lao tiềm ẩn và tăng mẫn cảm với nhiễm vi khuẩn lao.

Lao phổi
Bệnh lao vẫn là nguyên nhân gây tử vong ở người nhiễm HIV

2. Nguy cơ tổn thương hệ thần kinh ở người đồng nhiễm HIV/Lao

Hơn 50% người đồng nhiễm HIV/Lao có tổn thương lao ngoài phổi, và những người dương tính HIV có nguy cơ cao gấp 5 lần bị tổn thương hệ thần kinh trung ương trong quá trình nhiễm lao hơn những người âm tính HIV.

Thêm vào đó, sự phát triển nghịch thường của các u lao trong sọ đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị hợp lý các thuốc kháng lao và kháng virus sao chép ngược.

Nhiễm HIV cũng làm tăng nguy cơ cho cả lao mắc phải và tiến triển từ lao tiềm ẩn đến lao hoạt động. Với những bệnh nhân nhiễm HIV tiến triển nặng, liệu pháp kháng virus sao chép ngược hiệu lực cao (HAART) làm giảm nguy cơ đối với cả lao mắc phải và lao tiến triển cũng như giảm tỷ lệ hiện mắc của nhiễm trùng cơ hội và tử vong.

Vì khả năng cao hơn mắc bệnh lao trong bối cảnh đồng nhiễm HIV cũng như mối liên quan giữa nhiễm HIV với kết cục nghèo nàn của bệnh lao, xét nghiệm HIV cần được thực hiện ở tất cả bệnh nhân được chẩn đoán lao.

3. Hội chứng viêm tái cấu trúc miễn dịch (IRIS)

Hội chứng viêm tái cấu trúc miễn dịch (IRIS) là một đáp ứng viêm với một nhiễm trùng trước đó hoặc nhiễm trùng chưa được chẩn đoán mà có thể gặp ở những bệnh nhân nhiễm HIV sau khi bắt đầu HAART một thời gian ngắn. IRIS gây ra hai hội chứng lâm sàng riêng biệt: vạch mặt và nghịch thường. Cả hai hội chứng đều đáp ứng tốt với steroid, nhưng IRIS vạch mặt cần thêm điều trị nhiễm trùng nền.

Tế bào miễn dịch
IRIS gây ra hai hội chứng lâm sàng là vạch mặt và nghịch thường

IRIS vạch mặt xảy ra khi một nhiễm trùng kín đáo mà trước đó không gây ra triệu chứng hay dấu hiệu nào nay được nhận ra bởi hệ thống miễn dịch của vật chủ đang dần hồi phục trong những tháng đầu điều trị HAART. IRIS nghịch thường là sự tái diễn quá trình viêm chống lại một nhiễm trùng đã được điều trị trước đó do nhận ra các kháng nguyên bởi hệ thống miễn dịch của vật chủ đang hồi phục nhờ điều trị HAART; điều này có thể xảy ra trong bối cảnh chỉ có một số lượng nhỏ hoặc không có vi sinh vật sống nào, và nuôi cấy thường là âm tính.

IRIS hầu hết thường xảy ra ở người lớn, với 17% đến 32% người lớn sẽ có IRIS sau khi khởi đầu điều trị HAART. Khoảng 18% bệnh nhân lao có nhiễm HIV và khởi đầu điều trị HAART sẽ xuất hiện IRIS. IRIS liên quan vi khuẩn lao phần lớn thường biểu hiện là sốt với sự nặng lên trên lâm sàng của bệnh hạch bạch huyết (trong 70%) hoặc bệnh hô hấp (trong 30%).

Nhiễm mycobacteria đi kèm với IRIS thường xảy ra ở những bệnh nhân có số lượng CD4+ trung bình ít hơn 50 tế bào/mm3 và trung bình 4 tuần sau khi bắt đầu điều trị HAART.

Cùng với các chủng Mycobacterium, nhiều vi sinh vật gây bệnh khác có liên quan với IRIS; trong đó các bác sĩ chuyên khoa thần kinh cần quan tâm đến cytomegalovirus, Cryptococcus neoformans, varicella-zoster virus và Toxoplasma gondii.

Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis
Chủng Mycobacterium và nhiều vi sinh vật gây bệnh khác có liên quan với IRIS

4. Xử trí lâm sàng bệnh nhân lao có nhiễm HIV, bao gồm IRIS

Quản lý bệnh nhân lao có nhiễm HIV bao gồm điều trị thuốc kháng lao hiệu quả, sử dụng đồng thời liệu pháp kháng virus sao chép ngược (ART), dự phòng các bệnh đi kèm liên quan đến HIV, quản lý độc tính của thuốc và dự phòng/điều trị IRIS.

Điều trị lao ở người có đồng nhiễm HIV nhìn chung là theo các nguyên tắc tương tự như người không nhiễm HIV. Tuy nhiên, cần thận trọng vì tương tác giữa các thuốc kháng lao và kháng virus HIV, như các chất ức chế protease và các rifamycin, đặc biệt là rifampicin.

Trong những ca bệnh IRIS nhẹ, điều trị cụ thể cho IRIS thường là không cần thiết mà cần tiếp tục điều trị cả kháng lao và kháng HIV. Nếu triệu chứng của IRIS rõ ràng hơn, corticosteroid liều cao được chỉ định, đặc biệt với IRIS ở hệ thần kinh trung ương.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại. Bệnh viện cung cấp dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp, không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Khách hàng khi chọn thực hiện các xét nghiệm tại đây có thể hoàn toàn yên tâm về độ chính xác của kết quả xét nghiệm.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

452 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan