HIV VÀ NGUY CƠ UNG THƯ MÁU

Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu đã biết rằng việc ức chế hệ thống miễn dịch có liên quan đến ung thư. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) hoặc hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) cũng có thể gây ra sự suy yếu lớn lên hệ thống miễn dịch và liên quan đến tăng nguy cơ ung thư. Ngoài một số bệnh ung thư có "khối u đặc", HIV được coi là yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư máu.

1. Vì sao HIV lại gây ra ung thư?

HIV lây nhiễm và giết chết các tế bào Lympho T. Tế bào Lympho T là một phần của hệ thống miễn dịch của cơ thể thường giúp loại bỏ nhiễm trùng, bao gồm cả vi-rút gây ung thư. Ở những người không nhiễm HIV, phản ứng miễn dịch của họ có thể giúp loại bỏ virus trước khi ung thư có thể phát triển.

Nhưng, những người nhiễm HIV có ít tế bào Lympho T hơn, vì vậy họ không thể chống lại bệnh nhiễm trùng một cách dễ dàng. Các loại virus gây ung thư như Kaposi's sarcoma herpes virus (KSHV), Human herpesvirus-8 (HHV-8), Epstein-Barr virus (EBV) và Virus papilloma ở người (HPV) sau đó có thể tồn tại trong một thời gian dài và khiến các tế bào phát triển trong một thời gian dài và phân chia ra khỏi tầm kiểm soát. Điều này có thể dẫn đến ung thư.

HIV lây truyền qua đường máu
Những người nhiễm HIV có ít tế bào Lympho T hơn, vì vậy họ không thể chống lại bệnh nhiễm trùng một cách dễ dàng

2. Nguy cơ ung thư cho bệnh nhân HIV

Kể từ khi phát triển các liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao (HAART), thời gian sống của bệnh nhân HIV được kéo dài hơn rất nhiều. Tuy nhiên, việc kéo dài được thời gian sống nhưng bệnh nhân vẫn còn phải đối mặt với những nguy cơ ung thư tăng lên. Trước đây, người ta ước tính rằng có tới 40% bệnh nhân HIV / AIDS có thể bị những ung thư liên quan đến AIDS.

Trong những ngày đầu của đại dịch AIDS, một số loại ung thư dòng Lympho xuất hiện thường xuyên và tỉ lệ cao gấp hàng nghìn lần ở bệnh nhân HIV so với phần còn lại của dân số. Kể từ khi HAART được giới thiệu vào năm 1996, những tỷ lệ này đã giảm đáng kể nhưng nhiễm HIV vẫn tiếp tục là yếu tố nguy cơ của bệnh Non-Hodgkin lymphoma. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không rõ ràng về ảnh hưởng của HAART đối với tỷ lệ u Lympho Hodgkin.

U Lympho Non – Hodgkin (NHL) là bệnh ung thư phổ biến thứ hai ở bệnh nhân HIV, chỉ sau Kaposi Sarcoma. Một số ung thư máu ít gặp hơn như u Lympho Hodgkin, bệnh bạch cầu và u tủy cũng có liên quan đến HIV. Nguy cơ NHL là như nhau trên tất cả các quần thể HIV, bất kể bệnh nhân đã bị nhiễm như thế nào.

3. Các loại u Lympho có liên quan đến HIV

Ung thư hạch không Hodgkin (NHL) là một loại ung thư có nguồn gốc tại mô bạch huyết và có thể lan sang các cơ quan khác. Tỉ lệ xuất hiện cao hơn ở bệnh nhân nhiễm HIV hoặc AIDS hơn ở những người không bị nhiễm. Tuy nhiên, đa số những người bị NHL không bị nhiễm HIV.

Có nhiều loại NHL khác nhau, một số loại thường xuyên xuất hiện ở những người bị AIDS. Hầu hết các u lympho liên quan đến AIDS là u lympho Non-Hodgkin dòng tế bào lympho B. HIV thường gây kích thích tế bào lympho B, làm chúng tăng tốc độ sinh sản và hoạt hóa. Vì vậy đây là loại u lympho phát triển nhanh, bao gồm u lympho tế bào B lớn lan tỏa và u lympho Burkitt.

Một dạng khác là u lympho hệ thống thần kinh trung ương (CNS) nguyên phát, xuất phát tại não hoặc tủy sống. Các triệu chứng của u lympho CNS có thể bao gồm co giật, liệt mặt, nhầm lẫn, giảm trí nhớ và cảm thấy mệt mỏi. U lympho CNS nguyên phát chiếm gần một nửa trong số tất cả các u lympho liên quan đến AIDS.

Hầu hết NHL liên quan đến AIDS là những trường hợp đặc biệt vì đa số mô bệnh học được tìm thấy ở những nơi bên ngoài hệ thống bạch huyết. Những nơi phổ biến nhất mà NHL ảnh hưởng là hệ thống tiêu hóa, gan, tim, phổi, da và tủy xương.

Kết cục của bệnh nhân mắc NHL liên quan đến AIDS phụ thuộc vào loại u Lympho và chức năng miễn dịch của người bệnh, cũng như các yếu tố khác. Những người có NHL tiến triển, số lượng CD4 (tế bào T giúp đỡ) thấp và / hoặc những người không được dùng thuốc chống HIV thường diễn tiến nặng hơn so với những người không có các yếu tố nguy cơ này

Các loại nhiễm trùng cơ hội dễ gặp ở người bệnh HIV/AIDS
Hầu hết NHL liên quan đến AIDS là những trường hợp đặc biệt

4. Ung thư máu ở bệnh nhân HIV có thể được ngăn chặn?

Không hoàn toàn, nhưng bệnh nhân đang điều trị HAART sẽ giảm nguy cơ phát triển ung thư máu liên quan đến HIV. Tuy nhiên, kiến ​​thức và nhận thức giúp nhận biết sớm các dấu hiệu và triệu chứng cũng như các vị trí thường gặp của u Lympho là rất quan trọng nếu bạn bị nhiễm HIV hoặc AIDS.

Bệnh nhân bị nhiễm HIV nên được tư vấn cũng như tìm đến các bác sĩ sớm nhất có thể khi phát hiện các triệu chứng nghi ngờ. Chẩn đoán ung thư và bắt đầu điều trị sớm có thể mang lại cơ hội tốt để điều trị thành công.

Hầu hết những người mắc bệnh u Lympho liên quan đến AIDS sẽ gặp các triệu chứng chung giống như bất kỳ bệnh nhân u Lympho nào khác.

5. Triệu chứng của ung thư máu liên quan đến nhiễm HIV

Hầu hết những người mắc bệnh u Lympho liên quan đến AIDS sẽ gặp các triệu chứng chung giống như bất kỳ bệnh nhân u Lympho khác. Đa số đều có các triệu chứng nghi ngờ ung thư như:

  • Giảm cân không thể giải thích
  • Sốt không có dấu hiệu nhiễm trùng khác
  • Hạch bạch huyết sưng to nhanh
  • Đổ mồ hôi nhiều vào ban đêm

Bởi vì u Lympho liên quan đến AIDS thường được tìm thấy bên ngoài hệ thống bạch huyết, các triệu chứng cũng có thể biểu hiện tùy theo vị trí của khối ung thư phát triển. Ví dụ, các dấu hiệu của u Lympho trong não có thể bao gồm co giật, yếu hoặc giảm cảm giác, nhầm lẫn hoặc đau đầu. U lympho trong hệ thống tiêu hóa có thể dẫn đến cảm đau bụng mơ hồ hoặc máu trong chất nôn hoặc đi tiêu ra máu.

giảm cân đột ngột
Hầu hết những người mắc bệnh u Lympho liên quan đến AIDS sẽ gặp các triệu chứng chung giống như bất kỳ bệnh nhân u Lympho khác

6. Điều trị ung thư máu liên quan đến nhiễm HIV

Giống như u Lympho ở người khác, u Lympho ở bệnh nhân AIDS thường được điều trị bằng xạ trị, hóa trị hoặc cả hai. Tuy nhiên, thách thức là hầu hết những bệnh nhân này đều bị ức chế tủy xương và khả năng miễn dịch thấp trước khi bắt đầu điều trị. Kết quả là, bệnh nhân có nguy cơ cao bị nhiễm trùng nặng nề và có nguy cơ đe dọa tính mạng trong quá trình điều trị. Ngoài ra, người ta tin rằng sự ức chế miễn dịch gây ra bởi hóa trị liệu cũng có thể làm tăng tốc độ tiến triển của HIV.

Có nhiều phương pháp điều trị được kết hợp khác nhau như chế độ hóa trị liệu liều thấp, liệu pháp nhắm mục tiêu, ghép tế bào gốc, cũng như thêm hóa trị liệu vào HAART đang được nghiên cứu nhằm giúp tăng cơ hội sống cho bệnh nhân.

Khả năng điều trị và mức độ thành công phụ thuộc vào mức độ tiến triển của ung thư (giai đoạn), số lượng CD4 và các bệnh lý khác có liên quan đến AIDS khác hay không.

NHL không phải lúc nào cũng cần được điều trị ngay lập tức. Nếu u lympho phát triển chậm hoặc hệ thống miễn dịch vẫn đảm bảo chức năng, bác sĩ có thể điều trị mong đợi, kiểm tra tình trạng sau vài tháng một lần để đánh giá lại tình trạng bệnh. Can thiệp được thực hiện khi các có sự tiến triển hoặc triệu chứng trở nên trầm trọng hơn.

6.1. Xạ trị

Tia xạ có thể tiêu diệt các tế bào ung thư hoặc ngăn chúng phát triển. Bác sĩ sẽ sử dụng hệ thống tia xạ ngoài cơ thể và hướng các sóng hoặc hạt năng lượng cao tới vị trí khối ung thư, hoặc bác sĩ có thể đưa chất phóng xạ vào bên trong đến gần với vị trí tổn thương ung thư.

6.2. Hóa trị

Hóa trị cũng giúp ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư bằng cách tiêu diệt tế bào ác tính hoặc ngăn cản sự phân chia. Một số loại thuốc có thể uống, tiêm vào tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.. Hoặc bác sĩ của bạn có thể đặt hóa chất trực tiếp vào dụng cụ tiêm liên tục trong cơ thể bệnh nhân.

Hóa trị được sử dụng sau khi bệnh nhân phẫu thuật hoặc xạ trị u nguyên bào tủy
Hóa trị giúp ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư bằng cách tiêu diệt tế bào ác tính hoặc ngăn cản sự phân chia

Một trong những phác đồ phổ biến nhất để điều trị u Lympho không Hodgkin được gọi là CHOP, gôm:

  • Cyclophosphamide (Cytoxan)
  • Doxorubicin (Adriamycin)
  • Vincristine (Oncovin)
  • Prednisolone

Hóa chất có thể có tác dụng phụ, bao gồm rụng tóc, lở miệng, nôn mửa và mệt mỏi. Bạn có thể dễ bị bầm tím hoặc chảy máu dễ dàng. Và nếu bạn bị nhiễm HIV, bạn sẽ có nguy cơ bị nhiễm trùng cao hơn vì số lượng bạch cầu của bạn sẽ thấp hơn.

6.3. Liệu pháp sinh học nhắm trúng đích

Liệu pháp sinh học hoặc nhắm mục tiêu sử dụng các loại thuốc dựa trên các chất mà cơ thể bạn tạo ra để tăng cường hệ thống miễn dịch, giúp chống lại ung thư. Các loại thuốc khác nhau hoạt động theo những cách rất đặc hiệu để ngăn chặn sự phát triển ung thư. Chúng thường có tác dụng phụ ít nghiêm trọng hơn hóa trị.

6.4. Liệu pháp ghép tế bào gốc

Ghép tế bào gốc bắt đầu với liều hóa trị cao hơn và đôi khi bức xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư. Nhưng điều đó cũng giết chết tủy xương khiến tủy xương không thể tạo ra các tế bào máu mới. Vì vậy, các bác sĩ thay thế nó bằng các tế bào gốc được lấy từ bệnh nhân trước khi điều trị hoặc từ một người hiến tặng.

Nếu bệnh nhân được chẩn đoán bệnh u lympho không Hodgkin, bệnh nhân sẽ có nguy cơ cao bị "nhiễm trùng cơ hội" như là viêm phổi do Pneumocystis hoặc PCP. Bác sĩ có thể chỉ định các thuốc kháng sinh để dự phòng các bệnh lý này.

Tóm lại, những người bị nhiễm HIV có nguy cơ phát triển ung thư, bao gồm ung thư hạch Hodgkin, u tủy và phổ biến hơn là Non-Hodgkin Lymphoma. Điều quan trọng là bệnh nhân HIV / AIDS phải nhận thức được các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư hạch để có thể bắt đầu điều trị sớm. Các nghiên cứu đang thực hiện tiếp tục giúp những người mắc bệnh ung thư hạch liên quan đến AIDS có được các lựa chọn điều trị tốt và hiệu quả nhất. Tỉ lệ sống của u lympho thấp hơn ở những người bị AIDS, vì vậy tỷ lệ có thể nhận được hóa trị liệu cũng thấp hơn. Các thử nghiệm xem xét các phương pháp giảm thiểu tác dụng phụ của hóa trị liệu ở những người bị AIDS là rất quan trọng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

2.8K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan