Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS)

Ung thư là một trong những bệnh nguy hiểm nhất hiện nay, có thể xảy ra với cả nam và nữ, với mọi độ tuổi khác nhau. Tuy nhiên, có một số loại ung thư chỉ xuất hiện ở một giới, có thể kể đến là ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS). Vậy, ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ là bệnh gì?

1. Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) là gì?

Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) xảy ra khi các tế bào trong một số ống dẫn sữa hình thành các tế bào ung thư. Các tế bào này nằm trong ống dẫn sữa và chưa lan sang các mô vú xung quanh. Do đó, chúng có một thể lây lan đến các hạch bạch huyết hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Nếu không được điều trị, trong một số trường hợp, DCIS có thể lây lan sang các mô vú xung quanh tạo thành ung thư biểu mô ống dẫn sữa. So với trước đây, DCIS hiện nay có thể được phát hiện dễ hơn.

Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ thường được phát hiện bằng cách chụp nhũ ảnh trong quá trình tầm soát ung thư vú. Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ không giống như ung thư biểu mô ống dẫn sữa xâm lấn. Trong ung thư biểu mô ống dẫn sữa xâm lấn, các tế bào vỡ ra khỏi ống dẫn sữa và lan sang các mô vú xung quanh. Sau đó, chúng có cơ hội lây lan sang các hạch bạch huyết lân cận hoặc các bộ phận khác của cơ thể.️

DCIS là một dạng ung thư vú giai đoạn đầu, chiếm khoảng 12% tổng số các loại ung thư vú. Ung thư vú bắt đầu khi các tế bào trong vú bắt đầu phân chia và phát triển theo những cách bất thường. Vú được cấu tạo bởi các tiểu thùy (tuyến sản xuất sữa) và các ống dẫn (ống dẫn sữa đến núm vú), các tiểu thùy và ống dẫn sữa được bao quanh bởi các tuyến, sợi và mô mỡ. Khi các tế bào ung thư phát triển bên trong các ống dẫn của vú nhưng vẫn ở trong các ống dẫn (tại chỗ), nó được gọi là DCIS. Tế bào ung thư không thể lây lan từ các ống dẫn này sang mô vú xung quanh hoặc các bộ phận khác của cơ thể.

2. Phương pháp điều trị ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS)

  • Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính cho DCIS. Nhiều người bệnh chọn cách loại bỏ vùng DCIS cùng với đường viền của các mô lành xung quanh. Đây được gọi là phẫu thuật cắt bỏ cục bộ rộng rãi hoặc phẫu thuật bảo tồn và đôi khi được gọi là cắt bỏ khối u. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ một phần vú trên diện rộng, nếu các tế bào DCIS bất thường (loại cao), bệnh nhân có thể được xạ trị trên phần còn lại của mô vú.

Xạ trị nhằm mục đích tiêu diệt bất kỳ tế bào bất thường nào còn lại trong mô vú. Bác sĩ sẽ thảo luận trước với bệnh nhân về những lợi ích và rủi ro của xạ trị. Nếu muốn, người bệnh có thể tái tạo vú mới trong hoặc sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú. Một số người bệnh lựa chọn phương pháp phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú hơn là cắt bỏ một phần vú lớn vì nó cho cảm giác rằng DCIS đã được chữa khỏi hoàn toàn.

Một số trường hợp người bệnh sẽ được yêu cầu cắt bỏ toàn bộ vùng ngực như: Vùng ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) quá lớn, DCIS không tập trung ở một chỗ mà đã tách ra xuất hiện ở nhiều nơi, cơ địa ngực nhỏ và vùng ung thư biểu mô ống dẫn sữa rất rộng

phẫu thuật ung thư biểu mô ống dẫn sữa
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính cho DCIS.

  • Định vị sang thương: Gần như các trường hợp DCIS đều không thể trực tiếp cảm nhận được, do đó, cần một một thủ thuật thường được sử dụng vào ngày trước hoặc vào ngày phẫu thuật bảo tồn vú để định vị vùng ung thư. Đây là thủ thuật rất nhanh, chỉ trong 30 phút đã có thể xác định chính xác vùng cần cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật. Dưới sự hướng dẫn của chụp nhũ ảnh hoặc siêu âm, một sợi dây rất mỏng (dây kim loại) được đưa vào vùng đã được xác định. Người bệnh sẽ được gây tê cục bộ để làm tê vùng phẫu thuật nhưng vẫn sẽ cảm thấy khó chịu. Sau khi dây được định vị, bệnh nhân sẽ được chụp quang tuyến vú để kiểm tra xem nó đã vào đúng vị trí chưa. Khi dây đã vào vị trí, nó sẽ được cố định bằng băng và để ở đó cho đến khi hoạt động. Một số bệnh viện đang sử dụng phương pháp phẫu thuật định vị mới, sử dụng hạt phóng xạ liều thấp (kích thước bằng hạt gạo) thay vì dây kim loại để đưa vào mô vú.
  • Liệu pháp bổ trợ: Người bệnh có thể cần tiếp tục điều trị sau khi phẫu thuật, được gọi là điều trị bổ trợ. Liệu pháp bổ trợ có thể bao gồm xạ trị, và trong một số trường hợp, liệu pháp nội tiết. Mục đích của các phương pháp điều trị này là giảm nguy cơ DCIS tái phát hoặc phát triển ung thư xâm lấn.

Dù áp dụng phương pháp điều trị nào, bệnh nhân vẫn cần đi khám sức khỏe định kỳ để đảm bảo được điều trị ngay khi ung thư tái phát. Bác sĩ theo dõi sẽ sắp xếp lịch chụp X-quang tuyến vú hàng năm. Nếu ung thư tái phát trở lại, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú.

Bài viết tham khảo: ungthubachmai.vn, yhoccongdong.com, bvnguyentriphuong.com.vn

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

758 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan